Công Chúa Tsogyal hỏi vị Thầy: Người ta nên thực hành thập thiện như thế nào, thực hiện những đối trị ra sao?
Vị Thầy đáp: Mười điều thiện có bốn chủ đề.
1. Bản chất là một hành động thanh tịnh của thân, khẩu, và ý khiến sinh ra sự cao cả thật sự.[19]
2. Định nghĩa thiện hạnh là khi một người có tự do và giàu có thực hiện hành động đúng đắn, sẽ sinh ra kết quả được hạnh phúc mong muốn.
3. Sự phân biệt là những thiện hạnh ngược lại với mười bất thiện: phóng sinh, rất rộng lượng, sống trong sạch, lời nói chân thật, nỗ lực hòa giải tranh chấp, lời nói dịu dàng dễ nghe và tự chủ, nói lời có ý nghĩa, yêu thương mọi người, không bám luyến, và không nghi ngờ luật nhân quả và ý nghĩa quyết định.
4. Sau đây là mười hỗ trợ tạo ra những thiện hạnh trong dòng tâm thức con: tin tưởng vào những giáo lý chân chính, giữ lòng tự trọng và lương tâm trong sạch, kềm chế không cờ bạc, không tranh cãi, không xem họp chợ, luôn hành động một cách chu đáo tận tình, từ bỏ lười biếng, không giao thiệp với bạn xấu, tu hành thân, khẩu, ý nhu hòa, trau dồi bốn bậc hoạt động của tri giác, và nhất là chú tâm vào con đường của các đấng tôn quý.
Tsogyal, nhờ hành động theo cách này, nhất định con sẽ đạt được những cõi cao thật sự.
MƯỜI PARAMITA (BA LA MẬT)
Thứ ba, để dấn thân vào những hành động của mười ba la mật, có năm chủ đề.
1. Bản chất chung là những hành động có tính chất con đường đưa đến giác ngộ vô thượng.
2. Định nghĩa paramita: là điều làm cho con đến (ita) đại niết bàn, bờ bên kia (param) của biển sinh tử luân hồi.
3. Nhiệm vụ là hoàn thiện hai tích lũy và hoàn thành sự lợi lạc cho chúng sanh.
4. Có hai loại; thông thường và đặc biệt. Thông thường là sáu ba la mật: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, và trí tuệ phân biệt.
Đặc biệt, bố thí có ba loại: Pháp thí, tài thí, và vô úy thí.
Trì giới cũng có ba loại: Cố gắng không làm ác, cố gắng thu thập những phẩm tính thiện, và giới nguyện làm lợi ích chúng sanh. Nói khác đi, giữ được những giới luật này là nhờ cố gắng không làm mười bất thiện, nhờ sáu ba la mật, và nhờ tứ nhiếp pháp.
Nhẫn nhục cũng có ba loại: Không màng đau khổ khi từ bỏ luân hồi, kiên nhẫn chịu gian khổ vì lợi ích chúng sanh, và kiên trì giữ niềm tin trong Giáo Pháp, nghĩa là cố gắng không sợ hãi những trạng thái thâm sâu.
Tinh tấn cũng có ba loại: Tinh tấn áp dụng giáo lý Đại Thừa, tinh tấn như áo giáp chống lại nghịch cảnh, và tinh tấn không ngưng để thành tựu quả Phật toàn giác.
Thiền định cũng có ba loại: Thiền định tập trung vào con đường thế gian đúng đắn, thiền định tập trung vào con đường xuất thế gian, thiền định tổng quát tập trung vào cả hai.
Trí tuệ cũng lại có ba loại: Trí tuệ nhận biết sự vật hữu vi thì vượt khỏi tập trung, trí tuệ nhận biết bản tánh vượt khỏi tập trung, và trí tuệ nhận biết rằng mọi hiện tượng đều siêu vượt nhị nguyên và vượt khỏi lời nói, suy nghĩ và mô tả.
Con nên biết rằng để thu nhập mỗi phương pháp vào dòng tâm thức, con phải có đầy đủ bốn ba la mật nữa.
Để vượt qua tính bủn xỉn và nghèo khó thì bằng sự bố thí không cầu báo đáp là sức mạnh ba la mật.
Bố thí mà thoát khỏi mục đích của người thường và người Tiểu Thừa là phương tiện ba la mật.
Bố thí với ý tưởng: mong cho con ngăn chận sự nghèo khó của chính con và mọi chúng sanh! là nguyện ba la mật.
Bố thí với ba phạm vi[20] hoàn toàn thanh tịnh là trí ba la mật.
Tương tự, khắc phục bất thiện bằng giới luật không tham muốn kết quả của sanh tử là lực ba la mật.
Duy trì những giới nguyện trong khi thoát khỏi tám mối quan tâm thế gian là phương tiện ba la mật.
Mong ước rằng sự cư xử bất thiện của mọi chúng sanh được chấm dứt trong lúc không mong muốn quả báo nhân thiên cho chính con, là nguyện ba la mật.
Không khởi ý niệm phân biệt ba lãnh vực (chủ thể, đối tượng và hành động) là trí ba la mật.
Chiến thắng sân hận nhờ cư xử bình đẳng với mọi người là lực ba la mật.
Không bám giữ ý định thế gian như sự lừa gạt và đạo đức giả là phương tiện ba la mật.
Không tham cầu mình được tái sanh với thân thể đẹp đẽ của cõi nhân, thiên, mà mong ước sự xấu xí của tất cả chúng sanh được chấm dứt là nguyện ba la mật.
Không khởi ý niệm phân biệt của ba lãnh vực là trí ba la mật.
Khắc phục sự lười biếng với sự tinh tấn suy niệm những tính tốt và xấu là lực ba la mật.
Không bám giữ ý định thế tục như hy vọng được người khác tin tưởng là phương tiện ba la mật.
Mong cầu cho mọi chúng sanh hết lười biếng và nỗ lực trên con đường là nguyện ba la mật.
Không khởi ý niệm phân biệt ba lãnh vực là trí ba la mật.
Khắc phục tán tâm nhờ thiền định vượt khỏi cõi vô sắc là lực ba la mật.
Thực hành vì lợi ích thành tựu những phẩm tính của giác ngộ vô thượng, không mong cầu những trạng thái của cõi nhân, thiên, là phương tiện ba la mật.
Mong cầu cho sự phóng tâm của mọi chúng sanh được kết thúc là nguyện ba la mật.
Không khởi ý niệm phân biệt ba lãnh vực (chủ thể, đối tượng, hành vi) là trí ba la mật.
Chiến thắng những tạo tác phân biệt bằng trí tuệ tánh Không chẳng tách lìa bản tánh của lòng bi là lực ba la mật.
Chẳng lìa bản tánh của trí tuệ và lòng bi suốt ba thời là phương tiện ba la mật.
Mong cầu cho con và mọi người nhận ra được thực nghĩa là nguyện ba la mật.
Nhận ra rằng từ vô thủy, tâm con sẵn có bản tánh trí tuệ này là trí ba la mật.
Tsogyal, hãy thực hành theo cách này không xao lãng.
5. Quả của việc thực hành mười ba la mật là con sẽ giải thoát khỏi những cõi thấp, và đạt được những cấp đặc biệt của cõi nhân, thiên, con sẽ hoàn thiện những con đường và nhanh chóng đạt Phật quả, sau đó con sẽ trở thành một người hướng dẫn vĩ đại giải thoát chúng sanh khỏi luân hồi.
Do YESHE TSOGYAL ghi lại và chôn dấu
Phát lộ bởi : NYANG RAL NYIMA OSER và SANGYE LINGPA
Nguồn: Giáo Huấn Dakini