Cách Yeshe Tsogyal tiếp tục bảo vệ tăng đoàn và làm lợi lạc chúng sinh |

Cách Yeshe Tsogyal tiếp tục bảo vệ tăng đoàn và làm lợi lạc chúng sinh

Kho Tàng Terma Phối Ngẫu Tâm Linh Yeshe Tsogyal

Giáo lý của Đức Phật, cộng đồng Tăng đoàn, các trung tâm nghiên cứu mật giáo và việc thực hành Phật Pháp đã lan tỏa mà không chút ngăn ngại trên khắp Tây Tạng. Các bậc minh sư thông tuệ từ Ấn Độ, Trung Hoa, Nepal và các vùng khác đã được lấp đầy với sự hài lòng. Chan chứa với thiện tâm và rất nhiều vàng, sau đó họ đã trở về quê nhà của mình.

Nhưng Đức Shantarakshita, Đức Padmasambhava cùng Đức Vimalamitra vẫn ở lại để xoay chuyển Pháp luân của Kinh Điển và Mật Điển, mang lại niềm hỷ lạc cho trái tim và tâm thức của Pháp Vương vĩ đại. Quyền lực và sức mạnh của nhà vua đạt đến những tầm cao trỗi vượt. Đạo Bon sai lạc đã được thuần hóa và kẻ thù của nhà vua trong tất cả bốn phương đều được thuần phục – tất cả những gì nhà vua mong muốn đều được hoàn thành, thậm chí dù chỉ là ý định nhỏ bé nhất. Như vậy, vua Trisong Deutsen đã trao quyền cai trị đất nước lại cho con trai của mình là Mune Tsanpo.

Không chút cảm xúc rắc rối nào với Pháp Vương, không chút đau đớn hay bệnh tật nào. Ông đi từ hạnh phúc này sang hạnh phúc khác. Sau đó, vào một buổi tối, gọi những người vợ và các con trai của mình, giới quý tộc cùng các bộ trưởng tiểu bang, ông đã ban cho họ những chỉ dẫn khác nhau. Vào lúc nửa đêm, ông thực hiện một buổi lễ trong điện thờ và cúng dường những bông hoa. Sáng sớm hôm sau, ông đã đạt được chứng ngộ tâm linh cao cấp, vào lúc bình minh, ông đã hòa tan với một tia sáng và tan biến vào tim Đức Văn Thù Manjushri, kể từ đó không ai còn thấy ông nữa.

Một thời gian sau đức vua mới Mune Tsanpo đã bị đầu độc bởi một trong những người vợ của cha mình, và một người con trai khác của vua Trisong Deutsen là Mutri Tsanpo đã nối ngôi để trở thành người trị vì Tây Tạng.

Vào thời điểm đó, các hoàng hậu vẫn còn hằn thù với Phật Pháp, họ đã cố gắng để gây chia rẽ giữa hai cộng đồng tôn giáo bằng cách khuyến khích sự tranh đấu và ganh đua. Nhưng Tsogyal đã dùng tất cả lòng từ bi và phương tiện thiện xảo của mình, cuối cùng hòa giải họ để những rối loạn như vậy không diễn ra thêm một lần nữa.

Gần Samye, ở Haspori, có một hoàng hậu Nội Bon được gọi là Chokro-bza hay Bon-mo-tsho. Bà ta từng quen biết với Tsogyal kể từ khi cả hai còn khá trẻ, nhưng vì ganh tị, lúc bấy giờ bà ta đã đưa cho Tsogyal một số loại mật hoa có chứa chất kịch độc. Mặc dù biết điều này, nhưng Tsogyal vẫn uống, cô nói với Chokro-bza:

“Kye Ma!

Nghe này bạn thân, mật hoa này thật tuyệt vời,

Tinh chất tốt lành;

Thân tôi là Thân Kim Cương, tinh sạch và bất hoại.

Nó đã chuyển hóa mật hoa này

Vào bản chất kỳ diệu của bất tử.

Dù mục đích này của bạn đã không được thực hiện,

Nhưng tôi đã biến nó trở thành sự thành tựu vĩ đại.

“Vì không nuôi dưỡng sự ganh tị,

Tôi đã xóa nhòa những bất hòa giữa Phật giáo và Bonpo.

Bạn nên cầu nguyện với chư thần và bổn tôn,

Và phát triển những ý định thuần khiết hướng về các đạo hữu tâm linh,

Hãy cảm nghiệm lòng từ bi với những người vô vọng,

Và lòng sùng mộ khiêm hạ đối với các vị Thầy!”

Sau đó, thân thể Tsogyal trở nên được lấp đầy với nhiều cầu vồng; các ánh sáng lung linh, chuyển động và mở rộng thậm chí tới đầu lọn tóc của cô. Cô đã trở thành tinh túy của Kim Cương.

Chokro-bza đã rất xấu hổ; bà ta không còn dám ở lại xứ sở và đã bỏ đi sang xứ khác. Các hoàng hậu Tây Tạng đã rất giận dữ vì biến cố này và họ đã trục xuất Tsogyal tới Tsang.

Đầu tiên Tsogyal đã đến Kharag Gang nơi có khoảng 300 đệ tử tụ tập để thực hành cùng cô. (Sau đó nơi này được gọi là Kharag Đức Bà.) 39 đệ tử trong số này đã phát triển các năng lực huyền thuật đáng chú ý cùng những dấu hiệu chứng ngộ; 20 người đã trở thành những bậc thầy vĩ đại; 7 người đã trở nên ngang bằng với chính Tsogyal; và tất cả bọn họ đều làm lợi lạc cho vô lượng chúng sinh theo vô số cách.

Sau đó Tsogyal đã thực hành ở Jomo nang, nơi được đặt tên trong danh tiếng của cô. Ở đó, 1.001 nữ tu sĩ đã hội tụ; 100 người đã trở thành những bậc thầy vĩ đại có thể giúp đỡ người khác; 500 người phát triển những năng lực đáng kể và 7 người đã trở nên ngang bằng với chính Tsogyal.

Khi Tsogyal thực hành giáo lý bí mật ở Upalung, danh tiếng của cô lan rộng khắp Tsang, và 1.000 người nam cùng 1.300 người nữ đã đến để được gần cô cho sự thực hành. Tất cả bọn họ đều đi vào các giáo lý Mật thừa cao nhất, hợp nhất các thực hành thuần thục và giải thoát. Không một ai trong số họ còn phải trở lại vòng luân hồi sinh tử. Tsogyal đã ban những thực hành dòng truyền thừa đặc biệt của cô tới 80 thành tựu giả cùng 7 hành giả với nghiệp thanh tịnh đặc biệt để dòng khẩu truyền của cô được lan truyền rộng rãi. Khi những giáo lý của cô trở nên vững chắc ở Jomo nang, nhiều người khao khát đã xuất hiện ở Upalung, nhiều thành tựu giả đã xuất hiện ở Kharag và Jo-mo nang.

Khi Tsogyal sau đó đi tới Shampo Gang, 7 tên cướp đã cưỡng bức và cướp tài sản của cô. Nhưng khi chúng đang thực hiện hành vi với cô, cô đã hát cho chúng bài ca về 4 Hỷ Lạc này:

“NAMO GURU PADMA SIDDHI HRI!

Hôm nay, những đứa con trai của ta, các con đã gặp ta, Bà Mẹ Vĩ Đại –

Điều này là do năng lực công đức có được trước đây.

Bây giờ là lúc đủ nhân duyên thích hợp cho Bốn Quán Đảnh.

Nghe này, những đứa con trai của ta, và hãy chú tâm;

Ta sẽ chuyển động với các con thông qua 4 Hỷ Lạc.

“Hãy nhìn chăm chú vào mạn đà la của Mẹ,

Các con sẽ thấy cảm giác ham muốn phát sinh nồng nàn,

Và đạt được niềm tin từ Quán Đảnh Tịnh Bình.

Hãy khám phá ra sự thật thuần tịnh ham muốn của chính các con –

Hãy trộn lẫn bất khả phân với các vị bổn tôn của Giai Đoạn Phát Triển.

Hãy biến tất cả thành các vị thần và các chư tôn,

Hãy suy niệm tâm khao khát của các con là sự biểu hiện của các vị thần,

Những đứa con của ta.

“Hãy hợp nhất với không gian mạn đà la của Mẹ;

Đại Lạc phát sinh từ gốc rễ đó.

Hãy làm bình lặng tâm sân hận;

Hãy để tâm yêu thương thay thế cho nó,

Và năng lực thu được từ Quán Đảnh Bí Mật.

Hãy khám phá ra sự thật thuần khiết của hỷ lạc –

Hãy trộn lẫn hỷ lạc với hơi thở và để chúng luân lưu một chút.

Không có sự quay trở lại từ Đại Ấn.

Hãy khám phá lạc phúc của Đại Ấn, những đứa con của ta.

“Hãy hợp nhất với sự rộng mở của Bà Mẹ Đại Lạc.

Hãy để sinh lực của các con có một sự sống riêng của nó;

Các con và ta sẽ trộn lẫn tâm và trí,

Và đạt được ân phước từ Quán Đảnh Trí Tuệ.

Hãy giữ vững sự thật thuần khiết của lạc phúc –

Hãy trộn lẫn với Đại Lạc cởi mở.

Không có sự quay trở lại từ phúc lạc bất hoại, cởi mở.

Hãy khám phá Sự Hỷ Lạc Hân Hoan Vô Thượng, những đứa con trai của ta.

“Hãy hợp nhất với gốc An Lạc của Mẹ

Hãy khiến cho “cái hai” của tính bất nhị thành “cái một” của tâm giác ngộ.

Hãy làm ngưng lại sự xuất hiện của bản ngã và tha nhân,

Và đạt được Giác Tánh Nguyên Sơ từ Quán Đảnh Sáng Tạo.

Hãy giữ gìn tính tự sinh của nó trong thế giới hiện tượng.

Hãy trộn lẫn ham muốn làm chủ với sự cởi mở,

Và không có sự quay trở lại từ Đại Viên Mãn.

Hãy khám phá sự siêu vượt Hỷ Lạc của Tính Tự Sinh, những đứa con của ta.

“Những chỉ dẫn này đặc biệt phi phàm.

Như vậy giải thoát kỳ diệu đến từ cuộc hội ngộ của chúng ta,

Và ngay lập tức, nhanh như điện chớp,

Các con thọ nhận Bốn Quán Đảnh,

Và đạt tới sự trưởng thành bằng cách chứng ngộ 4 Hỷ Lạc.”

Trong suốt bài ca này, bảy tên cướp đã đạt được sự thuần thục và giải thoát. Chúng đã phát triển năng lực trên khuôn mẫu và năng lượng của mình, chúng đã trở thành những bậc thầy vĩ đại của 4 Hỷ Lạc. Không cần bỏ lại thân thể, 7 tên cướp thành tựu giả đã đi tới vùng đất Orgyan và ban sự cứu giúp to lớn cho vô số chúng sinh.

Sau khi tu tập cho 7 vị thầy này, Tsogyal đã trở lại Nepal, nơi những nhà bảo trợ từ lần viếng thăm trước của cô cũng như vua xứ Nepal, Ji-la-ji-pa, một lần nữa dâng lên cô sự chào đón nồng nhiệt. Đổi lại, cô đã ban cho họ nhiều chỉ dẫn của Đạo Sư về thiền định. Trong khi ở đó, cô đã gặp một cô gái 14 tuổi có người cha được gọi là Bha-da-na-na và mẹ được gọi là Na-gi-ni. Đứa trẻ là một Dakini trong thân người, và Tsogyal đã mang đứa trẻ theo. Cô gọi bé gái đó là Kalasiddhi, vì trong tương lai, bé gái này sẽ đạt được thành tựu mật thừa lớn lao và trở thành một thành tựu giả vĩ đại của dòng truyền thừa Dakini Ming-du-ku.

Sau khi rời Khoshod, Tsogyal đã chậm rãi du hành qua nhiều vùng đất. Trong toàn bộ một năm, cô đã khai mở mạn đà la các giáo lý bí mật của Lama với Kalasiddhi, Blogro-kyid, De-chen-mo, Sal-kra cùng những đệ tử khác của mình. Cô đã ban cho họ nhiều giáo lý và họ đều đạt được thành tựu. Cô thiết lập Pháp ở những vùng đất biên giới xa xôi, nơi nó chưa được ban truyền, tụ hội khoảng 200 người theo Pháp cùng một lúc và dạy họ bản chất về nhân quả.

Cuối cùng, Pháp Vương Mutri Tsanpo đã gửi ba nhà quý tộc của mình tới thỉnh mời Tsogyal trở lại. Vì vậy, Tsogyal đã bổ nhiệm Blogro-Kyid làm nhiếp chính thay mình khi cô vắng mặt, và sau đó cô trở về Tây Tạng cùng 30 đệ tử của mình, gồm cả Kalasiddhi. Trên đường đi, cô đã đến ghé thăm Kharag, Jomo nang và Upalung, thọ nhận những cúng dường và sự tôn kính từ nhiều người.

Khi đến Samye, nhà vua đã tổ chức một buổi lễ chào đón vĩ đại cho cô và tặng cô nhiều phẩm vật. Ông đã dẫn cô tới phòng thờ trên cùng của Samye, nơi các bộ trưởng tiểu bang, giới quý tộc và các vị lotsawa chào đón cô với niềm vui lớn lao như thể cô vừa từ cõi chết trở về.

Nhưng trong thời gian Tsogyal ra đi, Đức Shantarakshita thông tuệ vĩ đại đã thị tịch. Cô lập tức đến bên lăng mộ của ngài, dâng lên 7 vốc vàng, 9 chiếc khăn lụa cùng nhiều mạn đà la. Ở đó cô đã bày tỏ sự thương tiếc của mình, cô khóc than với bài ca này:

“Kye Ma Kye Hud!

Ôi Đức Thầy Linh Thánh Vĩ Đại!

Mặc dù bầu trời là rộng mở và được lấp đầy với những vì sao tinh tú,

Nhưng nếu 7 con ngựa lửa của mặt trời vắng bóng,

Thì ai sẽ thắp sáng bóng tối đây?

“Ai sẽ thắp sáng mảnh đất tăm tối của Tây Tạng

Giờ đây mạn đà la pha lê bất nhiễm đã biến mất?

Nếu không có sự thủ hộ từ những tia sáng từ bi của ngài,

Ai sẽ dẫn dắt chúng con, những kẻ như mù lòa?

“Mặc dù chúng con có thể sở hữu kho tàng trân bảo của một vị vua,

Nhưng nếu viên ngọc như ý đã biến mất,

Ai sẽ ban cho chúng con những gì mình cần và mong ước?

Tình yêu thương chiếu sáng của ai sẽ xua tan đi đau khổ

Trong xứ Tây Tạng của những ngạ quỷ này?

Viên Ngọc Như Ý Quý Giá ơi, ngài đã đi về đâu?

“Thưa Bậc Pháp Bảo, Đấng đáp ứng mọi nhu cầu và nguyện ước của chúng con,

Nếu ngài không tiếp tục giúp đỡ chúng con, thì ai sẽ là người như vậy?

Chúng con như những kẻ què quặt, thậm chí không thể đứng vững;

Ai là người có thể giúp được chúng con đây?

Dẫu cho tam thiên đại thiên thế giới được lấp đầy với các bậc chúa tể uy quyền,

Nếu không có ai xoay chuyển Pháp Luân, thì ai sẽ bảo vệ chúng con?

Lúc này chúng con có thể nương tựa nơi đâu trong xứ Tây Tạng man rợ?

“Đấng chuyển Pháp Luân, Bậc Chiến Thắng Nhất,

Đấng Chúa Tể, ngài đã đi về đâu?

Nếu ngài không tiếp tục bảo vệ chúng con với nề luật Pháp,

Ai sẽ là người chúng con có thể nương tựa,

Chúng con, những kẻ ngu ngốc và vô tâm?

Mặc dù thế giới này có nhiều bậc thành tựu giả thông tuệ,

Nhưng không có ngài, hỡi vị Đại Minh Sư,

Làm sao chúng con có thể nắm bắt được các giáo lý?

Bậc thành tựu tối hảo của chư Phật ơi, ngài đã đi về đâu?

Nếu ngài không tiếp tục bảo vệ chúng con với Kinh Điển và Mật Điển,

Ai sẽ ở lại để giúp chúng con,

Chúng con, những kẻ giống như những thây ma,

Lười biếng và thiếu hiểu biết?

“Kye Ma Kye Hud!

Bậc Tối Hảo, Bậc Minh Sư An Bình,

Bậc Chúa Tể của chư Bồ Tát, Bậc dẫn dắt chư Thiên, Đấng Thủ Hộ!

Nhờ lòng từ bi của ngài, con và những chúng sinh khác ở nhiều nơi

Đã đi vào cánh cửa các giáo lý.

Nhờ Giáo Pháp của cả hai con đường Kinh Điển và Thần Chú,

Chúng con đã có những thực hành trưởng thành, giải thoát chân thực và an lạc.

Nhờ bốn phương tiện chuyển di, chúng con có thể mang lại lợi lạc cho chúng sinh.

“Cha ơi, khi đã hoàn thiện mọi hành năng của các bậc trưởng tử Phật,

Cầu mong con trở thành thủ lĩnh các bậc thầy cùng giáo lý!

Cầu mong ngọn cờ chiến thắng của giáo lý được giương cao

Và không bao giờ hạ xuống!

Cầu mong tất cả chúng sinh băng qua đại dương sinh tử luân hồi

Trên con tàu giáo lý này!

Và mong con có thể đạt được chứng ngộ và trở thành bậc thầy của chúng sinh!”

Khi Tsogyal vừa dứt lời thì một bài ca đã được nghe thấy đến từ phía đỉnh bảo tháp, mặc dù không hề thấy ai xuất hiện ở đó:

“OM A HUM!

Tất cả hành động của con là hành năng của chư Phật ba thời;

Những hoạt động thu hút của con tăng trưởng vô hạn tựa không gian.

Việc giảng dạy gốc và nhánh của Đức Phật,

Lấp đầy khắp tất cả khắp mười phương,

Vì con là Bà Mẹ Vĩ Đại của các bậc Tuệ Giác, Bậc Nữ Thủ Hộ,

Hãy lấp đầy ba thời với hành năng cát tường của con!”

Tất cả những người có mặt cùng Tsogyal ở khu lăng mộ đã nghe thấy những lời ca này và họ vô cùng hoan hỷ.

Trong một thời gian, Tsogyal đã ở lại đền thờ của Pháp Vương vĩ đại, rồi sau đó cô đi đến Chimphu nơi cô an trụ bất khả phân với Đức Guru Rinpoche trong 11 năm.

Các Ngài đã cùng nhau cho ra đời những giáo lý cả về luận lý lẫn thực hành. Đức Guru Rinpoche đã hiển lộ tất cả những kho tàng tâm yếu bí mật của Ngài, bao gồm cả luận giảng và những chỉ dẫn kỹ thuật thực hành cho người nữ đệ tử xuất sắc của mình. Giống như mọi chất liệu đựng trong một chiếc bình được đổ đầy trọn vẹn sang một bình chứa khác mà không để sót lại bất cứ thứ gì, Tsogyal đã thọ nhận mọi điều từ Đức Guru Rinpoche.

Vào lúc này, Đức Guru Rinpoche đã nói với cô: “Chẳng bao lâu nữa thời gian sẽ đến, đó là lúc Ta khởi hành tới Ngayab – Lục Địa Dakini. Trước khi đi, chúng ta sẽ phải lấp kín Tây Tạng với những kho tàng Giáo Pháp thâm sâu, vĩ đại và vô tận. Để hoàn tất điều này, Ta cần một cô gái tên là Siddhi (Thành Tựu), người thuộc dòng truyền thừa của Dakini Vỏ Sò, người đó sẽ là trợ tá cho Ta trong các thực hành mật chú bí truyền. Như vậy, Ta sẽ làm lan tỏa rất nhiều những chỉ dẫn thâm sâu, những điều không được nghe nói tới trong bất kỳ giáo lý bí truyền nào khác. Và Ta sẽ cất giấu nhiều kho tàng cho các thế hệ tương lai.”

Như Tsogyal sau đó kể lại: “Tôi đã làm theo chỉ dẫn của Đạo Sư và gửi Dakini Siddhi tới Ngài. Các Ngài đã cùng nhau khai mở mạn đà la Lama Gongpa Dupa.

Các Ngài đã ban những thực hành thuần thục và giải thoát cho nhà vua Mutri Tsanpo, người mà sau đó sẽ thủ hộ và bảo trợ các giáo lý Phật Pháp trong truyền thống được bắt đầu bởi tổ tiên của mình.”

Guru Rinpoche đã chỉ dẫn các đệ tử của Ngài trong mọi giáo lý được ẩn mật như kho tàng terma, sau đó, trước tiên Ngài ban cho họ những huấn thị theo cách đúng đắn của việc sao chép các kho tàng. Ngài ban cho Namkhai Nyingpo những chỉ dẫn về cách tốc ký. Ngài ban cho Arya Dza-Jamyang những chỉ dẫn về các cách diễn đạt hay. Với Danma Tsemang, Ngài ban cho những chỉ dẫn về ba cách khác nhau để viết nhanh và viết đẹp văn bản; Ngài cũng ban những chỉ dẫn về mạch văn viết tới Kawa Paltseg. Với Chokro Gyal-tshan, Ngài dạy cách trình bày sạch đẹp. Ngài dạy ngữ pháp, logic và triết học tới Yudra Nyingpo; Với Vairotsana sáng trí, Ngài đã dạy tất cả. Với Tsogyal, Ngài dạy sự thành tựu Không Quên Xót.

25 đệ tử cùng nhiều người học nghề của Ngài đã đóng vai trò như những người biên chép với nhiều loại ngôn ngữ và phong cách khác nhau. Một số sử dụng Phạn ngữ, một số sử dụng chữ Dakini, một số là chữ Nepal. Những người khác đã viết chữ bằng lửa, nước hay gió. Một số sử dụng chữ Tây Tạng các loại: Uchen và Ume, Chakyu theo cách dài và ngắn, chữ Bon, chữ Bru và Bucha; Khong-seng hay Khyinyal, Kang-ring hay Kang-thung; một số đã viết bằng cách sử dụng các hình thức khác nhau của Shad và v.v..

Đức Padmasambhava đã viết xuống vòng giáo huấn các thực hành 10 triệu Thuggrub-kor và 10 ngàn vòng giáo huấn Nyingthig, văn bản gốc, các luận giảng và những chỉ dẫn kỹ thuật thực hành mở rộng cùng thâm sâu. Mặc dù rất nhiều về số lượng nhưng các giáo lý này lại ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu và chứa đựng nhiều ân phước hỷ lạc vĩ đại. Thậm chí ngay cả những bản văn ngắn gọn cũng rất sâu sắc, sáng tỏ và đầy đủ, chúng cung cấp bất cứ điều gì cần thiết và khát khao. Sau đó, để thiết lập sự xác tín trong terma của mình, Ngài đã thiết lập một hệ thống các minh chứng tuần tự giá trị của chúng. Ngài đã soạn thảo Kha-wang, Yang-wang, Nyingwang và v.v., rồi Ngài niêm phong chúng lại cho tương lai.

Đạo Sư cùng vị phối ngẫu của mình đã trở nên đồng nhất trong tâm thức và trí tuệ, các Ngài đã làm lợi ích cho chúng sinh bằng trí tuệ và phương tiện vĩ đại của mình.

Đã trở thành 1 trong các mối liên kết thu hút của khẩu, các Ngài hiển lộ sự rộng mở của các giáo lý Kinh Điển và Mật Chú. Đã trở thành 1 trong sự hóa hiện huyền nhiệm của thân, các Ngài đã minh chứng năng lực trên mọi hiện tướng thế gian. Đã trở thành 1 trong những phẩm tánh trí tuệ giác ngộ, các Ngài đã làm lợi lạc cho chúng sinh và Giáo Lý. Đã trở thành 1 trong những hành năng giác ngộ, các Ngài đã biểu lộ quyền năng trên bốn khía cạnh hoạt động. Như sự tuyệt đối, Đức Phổ Hiền và Đức Liên Hoa Sinh, Yab-Yum phối ngẫu tinh túy phúc lạc, các Ngài đã lấp đầy bầu trời với vũ điệu thân, ngữ, tâm, phẩm tánh và hành năng của mình.

Sau đó, từ Chimphu các Ngài từng bước đi qua những vòng ngoài Tây Tạng để ban những ân phước cùng các giáo lý. Đầu tiên các Ngài viếng thăm 3 Hang Cọp. Khi đến Hang Cọp Pagro, Bhutan, Đức Guru Rinpoche đã chuẩn bị tất cả những kho tàng riêng của mình và ban truyền Lung-wang, những tiên đoán liên quan đến việc khám phá chúng trong tương lai. Ngài nói: “Bất kỳ ai thực hành ở đây, vì nó là nơi tâm yếu của Ta, người đó sẽ thọ nhận được những thành tựu Đại Ấn. Đồng thời Ta, Vị Đạo Sư đang an trụ trong cõi trời Akanishtha Sắc Cứu Cánh, những hiện thể đại diện cho thân, khẩu và tâm của Ta sẽ xuất hiện một cách tự nhiên gồm một bức tượng của Đức Dorje Drolod, một bảo tháp, thần chú lục tự và những thứ khác.”

Sau đó Ngài tụng niệm những lời cầu nguyện và ban những gia hộ.

Khi các Ngài đến Hang Cọp Onphu, Tây Tạng, Đức Guru Rinpoche đã chỉ định tất cả các vị thầy terma, những nơi chôn cất kho tàng terma trong tương lai và Ngài ban Nying-wang, những tiên tri liên quan đến việc phó chúc các kho tàng. Ngài nói:

“Bất kỳ ai thực hành ở đây, vì nó là nơi thân của Ta, người đó sẽ phát triển sự thành tựu trường thọ. Cùng lúc đó Ta được sinh ra trên hồ Dhanakosha, những biểu tượng của thân, khẩu và tâm Ta sẽ xuất hiện một cách tự nhiên gồm thần chú tam tự, Ralu-Bru-Dpu, các bảo tháp và các chày kim cang.” Rồi Ngài tụng niệm những lời cầu nguyện và ban những gia hộ.

Khi các Ngài đi đến Hang Cọp, Kham, Đức Guru Rinpoche đã cất giấu nhiều kho tàng riêng và tuyên bố những lời tuyên thệ, những lời nguyện cùng những chỉ dẫn khẩu truyền dành cho các bậc thầy terma trong tương lai, cũng như Kha-wang, những dự báo về sự khai mật của chúng. Ngài nói: “Bất kỳ ai thực hành ở đây, vì nó là nơi khẩu của Ta, người đó sẽ được ban phước với tiếng tăm vĩ đại. Thậm chí ngay cả những người phá vỡ thệ nguyện của họ, nếu thực hành ở đây thì họ vẫn có thể phát triển cả những thành tựu thần lực thông thường và vĩ đại. Cùng lúc đó Ta sẽ ngự trên Ngai Kim Cương và xoay chuyển Pháp Luân, chế ngự ma quỷ và những kẻ tà kiến, những điều xuất hiện tự nhiên là những đại diện của Ba Thân gồm thần chú lục tự, thần chú tam tự, thần chú 12 âm, và v.v.” Rồi Ngài tụng niệm những lời cầu nguyện và ban những ân phước.

Theo cách như vậy, các Ngài đã đi đến nhiều địa điểm khác, các chi tiết có thể được tìm thấy trong những văn bản khác như Tiểu Sử Đức Padmasambhava.

Cuối cùng Đạo Sư và vị phối ngẫu của mình trở về điện thờ lớn của nhà vua ở xứ Tây Tạng, các Ngài ở lại trong thành trì cao cả của nó. Nhà vua, các quan đại thần, các hoàng hậu và giới quý tộc cùng tất cả các vị lotsawa đều đã tụ tập trước Đức Padmasambhava, họ thọ nhận những chỉ dẫn cùng những lời tiên tri. Ngay sau đó, vào ngày mùng 10 tháng Thân, trong năm Thân, Đức Guru Rinpoche đã cưỡi trên những tia sáng mặt trời để đi tới Tiểu Lục Địa Nga-yab ở phía Tây Nam. Nhưng Tsogyal lúc này vẫn còn ở lại để làm lợi lạc chúng sinh – cô ban những giáo lý 6 nhánh Phật Pháp cho nhà vua và thần dân, và cô cũng tiếp tục cất giấu những kho tàng của Đạo Sư ở tất cả những địa điểm được chỉ định.

Pháp Vương cùng đoàn tùy tùng của mình đã đi cùng Đức Guru Rinpoche tới đèo Gungthang. Rồi sau khi thỉnh cầu và thọ nhận nhiều dự báo cùng những huấn thị, họ buồn bã quay trở về.

Nhưng Công Chúa Tsogyal thì không như bọn họ, sau này cô đã kể lại cô đã tiếp tục đi cùng với Đức Padmasambhava như thế nào. Cưỡi trên những tia sáng mặt trời đi tới Tsha-shod-rong, biên giới giữa Tây Tạng và Nepal, ở đó, các Ngài đã đi xuống hang động bí mật của Tsha-shod. Tại đây các Ngài đã an trụ lại trong trong 73 ngày, khai mở mạn đà la các giáo lý Đại Viên Mãn Ati rộng mở toàn khắp và ban truyền sự quán đảnh nhập môn.

Tuy nhiên, buổi lễ đã gặp thử thách không cát tường (do một người bảo trợ đã khởi lên những nghi ngờ khác nhau), điều này đã khiến cho Đạo Sư tuyên bố: “Kể từ lúc này, các giáo lý bí truyền sẽ lan rộng trong xứ Tây Tạng này, nhưng cuối cùng một thời điểm sẽ đến khi các giáo lý Đại Thừa Ati sẽ bị đặt câu hỏi, khi chỉ có một vài người được giải thoát nhờ sự khẩu truyền hoặc bằng việc ban truyền kho tàng ẩn mật. Lợi ích của những giáo lý này cho chúng sinh sẽ bị hạn chế. Theo cách các sự kiện có liên đới tới nhau, mặc dù sẽ có sự xuất hiện bên ngoài của các giáo lý bí truyền, nhưng năng lực của chúng sẽ có ảnh hưởng ít ỏi. Đôi lúc những lời dạy này sẽ lan tỏa rộng rãi, nhưng ở những thời điểm khác, chúng lại nhanh chóng thoái trào. Đó là kết quả không như ý của buổi lễ này.

“Tuy nhiên, đối với con, Tsogyal, Ta sẽ ban truyền những giáo lý hoàn chỉnh, toàn diện và không giữ lại điều gì. Đây không phải là con đường thông thường – Đây là triết thuyết khiến tâm nhị nguyên biến mất. Bây giờ giáo lý này sẽ đến với con trong cách thức đầy đủ trọn vẹn.

“Nếu con đã thọ nhận được những giáo lý trước đó thì con sẽ không phải gieo trồng những hạt giống cho những hành vi từ trước nữa, và kết quả là, có thể sẽ không cần vụ thu hoạch trái quả tốt của chúng. Trong suốt một thời gian rất dài, thế gian sẽ không thấy những giáo lý này.

“Với giáo lý này thì không có hành động tốt hay xấu. Không có tái sinh cao hơn hay thấp hơn. Không có đời sống, không có trẻ hay già. Không có cảm thọ rõ nét hay che ám – vì giáo lý này ban cho lối đi trở thành một sự rộng mở, nơi tất cả mọi hiện thể đều ngưng dứt. Nếu Ta ban giáo lý này cho con như con là trước đó, thì những lợi ích đáng tin cậy sau đó sẽ không xảy ra cho số đông chúng sinh. Sẽ rất khó khăn để dạy cho chúng sinh những kho tàng sâu xa nhất trong giáo lý Đức Phật. Và tại sao lại như vậy? Bởi vì giáo lý này ngay lập tức chuyển hóa thân vật chất tức thời.

“Bây giờ hãy thiền định liên tục cho đến khi dù là một khoảnh khắc thôi con cũng không có sự chia tách khỏi Chonyid Ngonsum – sự chứng ngộ đầu tiên của Ati. Mặc dù con sẽ vẫn có một thân vật lý, nhưng con sẽ nhanh chóng trở thành một vị Phật.

“Từ đây, con sẽ đi đến Zabu và Tigro cùng những nơi khác, tiếp tục thực hành trong 3 năm. Sau ba năm, con sẽ có đạt được chứng ngộ cao hơn tiếp theo của Ati là Nyam-nang-gong. Sau 6 năm, con sẽ đạt được Rigpa-tshad, cái thứ 3 của những chứng ngộ Ati.

“Tại thời điểm này, con sẽ chuẩn bị tất cả terma và làm việc mang lại lợi ích cho người khác bằng cách ban truyền những giáo lý đặc biệt cùng các kỹ thuật thực hành. Con sẽ đi đến Lho-brag ở Kharchu để thực hành, ở đó con sẽ biểu hiện những chiến tích phi thường cùng những biến hóa vật lý kỳ diệu như làm cho các bộ phận trên thân con trở nên vô hình. Trong khoảng 200 năm, con sẽ giữ được một thân vật lý và làm lợi lạc cho chúng sinh. Sau đó, con sẽ gặp Ta ở Nga-yab Lục Địa Dakini trong Giác Tánh Nguyên Sơ Vĩ Đại. Con sẽ làm lợi ích cho chúng sinh không chút phân biệt và trở thành một vị Phật.”

Sau khi đưa ra tiên tri này, Đức Padmasambhava đã cưỡi trên một tia sáng và chuẩn bị rời đi. Tsogyal đã khóc, cúi đầu trước bậc Thầy của mình, cô kêu lên tuyệt vọng:

“Kye Ma Kyi Hud! Hỡi Đấng Chúa Tể Orgyan!

Lúc này Ngài ở đây, lúc này Ngài ra đi.

Nhất thiết phải có sự sinh ra và chết đi này sao?

Làm sao để có thể khiến sự sinh ra và chết đi này được thay đổi?

“Kye Ma Kyi Hud! Hỡi Đấng Chúa Tể Orgyan!

Trong một thời gian, con và Ngài đã không thể chia tách:

Lúc này, đột nhiên con và Ngài mỗi người một nẻo.

Phải có cuộc hợp và tan này sao?

Có cách nào để những người bạn được ở bên nhau mãi hay không?

“Kye Ma Kyi Hud! Hỡi Đấng Chúa Tể Orgyan!

Trong một thời gian toàn bộ Tây Tạng

Đã được lấp đầy với những ân phước của Ngài;

Và bây giờ nó chỉ còn lại những dấu chân Ngài.

Phải có sự vô thường này sao?

Liệu có cách nào làm đảo ngược những cơn gió nghiệp này?

“Kye Ma Kyi Hud! Hỡi Đấng Chúa Tể Orgyan!

Trong một thời gian Tây Tạng đã được bảo hộ bởi những lời dạy của Ngài;

Và giờ đây chúng chỉ là một câu chuyện từng được kể.

Phải có sự thay đổi này sao?

Liệu có cách nào để Ngài có thể ở lại?

“Kye Ma Kyi Hud! Hỡi Đấng Chúa Tể Orgyan!

Cho đến lúc này, Ngài và con đã từng không thể chia tách;

Và giờ đây Ngài bỏ lại con bơ vơ giữa bầu trời.

Người nữ này đang gặp ác nghiệp;

Ai sẽ ban cho con những quán đảnh cùng những ân phước?

“Kye Ma Kyi Hud! Hỡi Đấng Chúa Tể Orgyan!

Mặc dù Ngài đã ban cho con rất nhiều giáo lý thâm sâu,

Nhưng giờ đây Ngài sắp đi vào không gian bất tử.

Người nữ này thật bất hạnh;

Ai sẽ xóa đi những chướng ngại lúc này?

“Kye Ma Kyi Hud! Hỡi Đấng Chúa Tể Orgyan!

Giờ đây, xin làm ơn – xin ban cho con lời hứa của Ngài:

Xin mãi đăm đăm nhìn lên con với lòng bi mẫn,

Xin mãi nhìn lên Tây Tạng với đôi mắt ân phước!”

Sau đó Tsogyal rải 13 vốc vàng ròng lên Đạo Sư và tụng thần chú của Ngài. Đã cưỡi trên những tia sáng bay đi không quá xa, Đức Padmasambhava trả lời cô:

“Kye Ma! Nghe này, con gái, Chiếc Hồ Những Phẩm Chất Tốt Lành, Padmasambhava đang rời đi để đánh bại những kẻ ăn thịt người man rợ.

Hành năng của Ba Thân là sự viên mãn, uy lực và sáng tạo,

Hoàn toàn không phải là điều vô ích rải rác của những chúng sinh bình phàm.

Nếu con sợ hãi sinh tử, hãy ôm ấp lấy Giáo Pháp!

Hãy thực hành những Giai Đoạn Phát Triển và Hoàn Thiện,

Hãy mang khuôn mẫu và năng lượng nằm dưới quyền kiểm soát của mình –

Đây là phương tiện làm đảo ngược sinh tử.

“Kye Ma! Nghe này, cô gái thành tín và đức hạnh,

Padmasambhava đang khởi hành vì lợi ích chúng sinh.

Lòng từ bi không phân biệt tràn khắp lên tất cả,

Hoàn toàn không giống sự mơ hồ của những chúng sinh bình phàm.

Hãy thiền định về Guru Yoga – người bạn bất khả phân của con

Mọi sự sinh khởi sẽ đều là biểu hiện thuần khiết của Bậc Thầy.

Đây là giáo lý tuyệt hảo nhất:

Và rồi sự hợp, tan sẽ không còn tồn tại.

“Kye Ma! Hãy lắng nghe và quán sát cẩn trọng, cô gái quyến rũ khó cưỡng!

Padmasambhava đang khởi hành để giảng dạy và đào luyện những người khác.

Thân vô thượng bất hoại này hủy diệt sự tàn phá,

Hoàn toàn không giống như ác nghiệp đeo đuổi những người bình phàm.

Tất cả Tây Tạng được lấp đầy với những đứa con của Ta,

Những đệ tử thành tựu giả của Ta.

Hãy thiền định về Đại Ấn như con quán chiếu lý vô thường,

Vì luân hồi và niết bàn vốn đã được tự do, giải thoát –

Nên không có cách nào tốt hơn để đảo ngược những cơn gió nghiệp.

“Kye Ma! Nghe này, cô gái trẻ trung tín tâm,

Padmasambhava đang rời đi

Để xoay chuyển Pháp Luân trong vùng đất man rợ.

Đây là một Thân Kim Cương bất biến vô thượng,

Hoàn toàn không giống thân bệnh tật, đau đớn của chúng sinh bình phàm.

Giáo Pháp được lấp đầy Tây Tạng từ trên xuống dưới:

Nếu con học và hành,

Con sẽ không bao giờ thiếu sự giàu có Pháp.

Nhờ lắng nghe, suy niệm và thiền định,

Con hộ trì những giáo lý Đức Phật;

Cả con và người khác đều trở nên hoàn toàn chứng ngộ.

Không có cách nào thâm sâu hơn để đảo ngược sự thay đổi.

“Kye Ma! Nghe này, con gái trung thành của Kharchen-pa,

Padmasambhava đang khởi hành tới Liên Hoa Quang.

Chư Như Lai trong 3 thời đã yêu cầu Ta làm vậy.

Điều này hoàn toàn không phải như những chúng sinh bình phàm

Bị lèo lái bởi Chúa Tể Thần Chết.

Con gái, con có một thân tuyệt diệu, thân một thành tựu giả;

Hãy thỉnh cầu Bậc Chúa Tể, tâm chính con cho những ân phước và quán đảnh.

Không có bậc nhiếp chính nào khác hơn của Đạo Sư Liên Hoa.

“Kye Ma! Nghe này, Yeshe Tsogyal-ma,

Padmasambhava đang đến chốn Cực Lạc.

Ta sẽ an trú trong Pháp thân, trạng thái bất tử linh thiêng.

Điều này hoàn toàn không phải như việc chia tách giữa tâm và thân

Điều gây đau đớn, phiền não cho những chúng sinh bình phàm.

Đã vốn sẵn, Tsogyal, con đã được giải thoát nhờ các giáo lý thâm sâu.

Hãy thiền định về Đại Viên Mãn Ati!

Điều phá hủy tính hữu hình vật chất;

Hãy thiền định, cầu nguyện, thực hành và quét sạch những chướng ngại!

Sự bi mẫn của Lama xua tan tất cả mọi trở ngại.

“Kye Ma! Nghe này, Ánh Sáng Xanh Dương Chói Lọi được đánh dấu cát tường

Nhiều lần Ta đã ban cho con những chỉ dẫn khẩu truyền.

Hãy thực hành Guru Yoga và thấu hiểu được ý nghĩa của sự hội tụ cùng chấm dứt.

Hãy để đầu con được xức dầu với ánh sáng phổ quang cầu vồng –

Hãy quán tưởng ở đó mặt trăng và hoa sen,

Và chính Ta – Padmasambhava, Thầy con:

Một mặt và hai tay, cầm một chày kim cang và tách sọ,

Khoác nhiều lớp y áo nhiều màu, cùng các pháp y

Những phục sức tượng trưng cho sự viên mãn trọn vẹn các Thừa.

Mũ của Ta là một Nyan-shu – Mũ mềm dòng Liên Hoa

Với một chiếc lông đại bàng trên đỉnh;

Hoa tai và vòng cổ là những trang sức của Ta.

Ta đang ngự trong thế hoa sen.

Được phú bẩm với ánh sáng rạng rỡ, chói ngời,

Các biểu tượng cùng những dấu hiệu cát tường,

Chư Dakini trong năm màu cầu vồng bao quanh Ta,

Với những ánh sáng rực rỡ chiếu sáng sắc gọn về phía trước.

Hãy tiếp tục thiền định cho đến khi ánh sáng rực rỡ của hình ảnh này

Lan tỏa tràn khắp tâm con.

Khi sự sáng tỏ đó đến, hãy hòa tan sức mạnh của nó với sự thư thả,

Cho đến khi sự sáng rõ xuất hiện, hãy thực hành với nỗ lực lớn lao.

Hãy lặp đi lặp lại Thần Chú Kim Cương Đạo Sư:

Cốt tủy tinh yếu của Đạo Sư.

Cuối cùng, hãy hòa lẫn ba cửa của chính con với ba cửa của Ta,

Và nhận lãnh ân phước cùng sự hồi hướng của Lama.

Hãy ngơi nghỉ bên trong sự sáng tạo không tạo tác của Đại Viên Mãn.

Tsogyal-ma, không có gì cao siêu hơn điều này cả.

“Lòng từ bi của Padmasambhava không tăng cũng không giảm;

Ánh sáng bi mẫn của Ta sẽ không bao giờ ngưng thắp sáng Tây Tạng.

Một người chỉ cần gọi, và Padmasambhava sẽ xuất hiện trước mặt họ.

Ta không bao giờ rời xa những người có đức tin;

Hay thậm chí rời xa những người không có đức tin,

Mặc dù họ không thấy Ta.

Nhưng các con Ta sẽ luôn được bảo vệ bởi lòng bi mẫn của Ta.

“Như vậy, trong tương lai, vào ngày thứ 10 của tháng,

Padmasambhava sẽ xuất hiện trên những tia sáng mặt trời.

Như bốn mùa thay đổi, thì Ta cũng sẽ vậy,

Từ hiền minh chuyển sang các thân tướng phẫn nộ,

Ta sẽ ban cho những đứa con Ta những thành tựu thần lực chúng khao khát.

Thật đặc biệt quan trọng để thực hành vào ngày thứ 10 của tháng

Khi mọi thành tựu thần lực của chư tôn phẫn nộ

Cùng sự quán đảnh có thể được thâu đạt.

“Vào ngày rằm 15, Ta sẽ tới trên những tia sáng mặt trăng,

Với những ân phước gia trì cùng lòng bi mẫn rung chuyển khắp thế gian;

Ta sẽ làm trống rỗng tất cả những cõi thấp,

Làm lợi ích cho tất cả chúng sinh với hoạt động thu hút hoàn hảo.

“Vào ngày mùng 8, đêm và rạng đông, bình minh và hoàng hôn,

Cưỡi trên con ngựa huyền nhiệm Chang-she,

Ta sẽ lang thang xuống thế gian

Ban sự trợ giúp và sức mạnh tới chúng sinh.

Tại xứ sở ma quỷ, Ta sẽ xoay chuyển Pháp Luân.

Trong 21 vùng đất xa xôi phía bên kia vùng biển,

Và trong 30 vùng thậm chí còn xa hơn,

Ta sẽ hóa hiện không chút phân biệt

Trong các thân tướng hiền minh và phẫn nộ,

Như lửa, nước, gió, hư không và những cầu vồng –

Rung động của Ta đi qua mọi chốn,

Nhiều hóa hiện của Ta dẫn dắt chúng sinh tới an lạc.

“Vì những lý do tương tự, con gái, để làm lợi lạc vô lượng chúng sinh,

Con vẫn phải ở lại trong xứ Tây Tạng

Trong hơn 100 năm vẫn chưa đến sắp tới,

Để dẫn dắt chúng sinh đi tới an lạc.

Trong 101 năm, hãy đi đến Lục Địa Nga-yab,

Và cùng nhau chúng ta sẽ bảo vệ và dạy dỗ như một.

Con sẽ được gọi Bậc Trì Giữ Trí Tuệ, Ánh Sáng Xanh Dương Chói Lọi.

Cho đến lúc đó, con sẽ vẫn giữ sự hợp nhất với thân, khẩu và tâm Ta.

Con đã cắt ngang dòng sinh tử,

Con đã làm ngưng gió nghiệp.

Trong tương lai, con sẽ chỉ hóa hiện để làm lợi lạc chúng sinh.

“Cả hai chúng ta sẽ tiếp tục hóa hiện ở Tây Tạng –

Không chút mệt mỏi, không chút ràng buộc, chúng ta sẽ cứu giúp chúng sinh.

Bây giờ chúng ta là như nhau, Tsogyal,

Không một khoảnh khắc nào chúng ta thực sự chia lìa –

Chỉ trong một thoáng chốc, chỉ trong một ý nghĩa tương đối,

Vì vậy con hãy hạnh phúc!

Cầu mong những ân phước và lòng từ bi của Ta

Đổ mưa trên khắp tất cả Tây Tạng!”

Khi Ngài vừa dứt lời, bầu trời tràn ngập ánh sáng với những tập hội gồm các Daka

và Dakini; âm nhạc tràn khắp, những âm thanh tuyệt diệu không thể tưởng tượng từ

vỏ sò, trống lớn, trống tay damaru, các loại kèn, đàn dây, cồng chiêng, chũm chọe

và trống cùng nhiều loại âm thanh khác vang dội.

Những lá cờ lớn và những dải lụa xuất hiện, những dải cờ nhỏ cùng màn trướng,

lọng, cờ chiến thắng, cờ nghi lễ, những loại bột màu, bột thuốc, dụng cụ âm nhạc,

quạt lông chim các loại, những mái che, rèm lụa, chũm chọe, vỏ ốc xà cừ, kèn

xương đùi, trống tay, trống lớn, đàn luýt, chuông gió và nhiều hơn nữa, tất cả đều

hiện lên ở giữa những đám mây thực sự vĩ đại không thể nghĩ bàn những cúng

dường. Những ánh sáng rực rỡ chiếu qua lại, chiếu ngược phía trên đầu. Từ từ, Đạo

Sư cùng đoàn tùy tùng của Ngài biến mất về phía tây nam.

Như Yeshe Tsogyal sau đó thuật lại, cô cảm thấy hoàn toàn trống vắng và cô đã gọi:

“Hỡi Guru Rinpoche!

Ngài là Đấng Phật-Thầy;

Ngài là Đấng cha lành của chúng sinh;

Ngài chính là đôi mắt của Tây Tạng;

Ngài chính là trái tim của con …

Ôi thật ít ỏi lòng từ bi xót thương của Ngài làm sao!

Ôi thật là một điều khủng khiếp Ngài đã làm!

Kye Hud, Kye Hud!”

Cô đã khóc như vậy và gục xuống trong suy sụp. Một lần nữa Đức Guru Rinpoche đã nhìn trở lại và ban chúc thư đầu tiên của mình. Và một lần nữa, âm nhạc được tấu lên và ánh sáng chiếu rọi rực rỡ, phát tỏa khắp nơi. Ở giữa ánh sáng này, Tsogyal lờ mờ có thể thấy tập hội ở phía xa xa, biến mất về phía Tây Nam, và rồi các Ngài biến mất hoàn toàn.

Một lần nữa cô nằm gục xuống, kéo mái tóc, ôm lấy khuôn mặt của mình, đập lên thân thể và cô đã khóc:

“Kye Ma Ho! Kye Ma Hud! Hỡi Đấng Chúa Tể xứ Orgyan!

Mảnh đất Tây Tạng giờ chỉ còn lại sự trống rỗng?

Ánh sáng bi mẫn đã ra đi?

Những giáo lý Đức Phật đã bị từ bỏ?

Dân Tây Tạng bị bỏ lại không lương tâm?

Tsogyal bị bỏ lại không nơi nương tựa?

Xin hãy nhìn lên chúng con với lòng bi mẫn!

Xin hãy nhìn lên chúng con ngay lúc này!”

Cô đã khóc thật lớn, và trong sự hồi đáp, một giọng nói rõ ràng, vang xa và trầm hùng đưa ra một cuộc gọi cuối cùng, mặc dù không có ai có thể thấy được hình ảnh.

Và như vậy, Ngài đã ban chúc thư thứ 2 của mình. Đột nhiên, bầu trời sáng rực với ánh sáng lan rộng khắp tất cả bốn góc thế gian; trong một thời gian ngắn, các Dakini có thể được nhìn thấy, họ chuyển động nhanh như tên bắn qua lại nhờ một mạng lưới rạng rỡ ánh sáng. Sau đó, màn đêm phủ xuống một lần nữa và tất cả lại biến mất.

Một lần nữa, cô ngã quỵ xuống những tảng đá. Chảy máu và đau đớn khắp toàn thân, cô đã gọi Đạo Sư trong nỗi đau đớn khủng khiếp của mình:

“Kye Hud! Khối Cầu Pháp Tánh Bi Mẫn!

Hành năng lôi cuốn của Ngài bình đẳng với tất cả hư không –

Nhưng lúc này cuộc đời của Ngài ở Tây Tạng đã kết thúc.

Dù mỗi người đầu đen đều có số phận riêng của mình,

Nhưng lúc này số phận của Tây Tạng đã bị phong ấn.

Tất cả chúng sinh đều thể nghiệm cả niềm vui và nỗi đau

Bây giờ tới lượt con cảm thấy đau đớn.

Than ôi! Xin hãy nhanh chóng nhìn lên con với lòng bi mẫn!”

Và khi cô kêu gọi, một giọng nói vô hình đã nói: “Tsogyal, nhìn đây!” Khi cô nhìn lên, ở đó đã xuất hiện trước mặt cô, trong không gian một khối cầu ánh sáng kích thước bằng đầu cô, bên trong đó đầu tiên là di sản thừa kế của Đức Padma. Những ánh sáng phủ lấp khắp tất cả Tây Tạng và sau đó chúng hội tụ lại cùng nhau rồi chạy về một hướng ở phía tây nam, rồi biến mất.

Tsogyal vẫn không thể nguôi ngoai nỗi đau buồn. Cô kêu lên: “Hỡi Đấng Chúa Tể Orgyan, Đấng Bi Mẫn, xin đừng bỏ con! Xin hãy nhìn lên con! Làm sao chúng ta lại có thể chia tách?” Lại có những âm thanh xuất hiện giống như lần trước và trước mặt cô xuất hiện một quả cầu ánh sáng kích thước bằng bàn tay cô. Bên trong nó là một chiếc hộp chứa đựng di sản thừa kế thứ hai của Đạo Sư. Một ánh sáng chiếu sáng như mặt trời rọi sáng chói lọi một thời gian ngắn và sau đó nó tự tan biến vào chính nó, rồi tan hòa về phía tây nam, để lại một bóng tối sâu thẳm như lúc giữa đêm. Đạo Sư cùng đoàn tùy tùng chư Dakini của Ngài đã hoàn toàn biến mất. Mọi thứ trông giống như cô vừa thức giấc từ giấc mơ đêm qua vậy.

Tsogyal đã rất đau khổ, cô ngồi khóc khi nghĩ về Đạo Sư của mình. Trong dòng nước mắt, cô đã hát bài ca này:

“Kye Ma! Hỡi Jetsun Orgyan Rinpoche!

Ngài là Đấng cha lành bảo vệ Tây Tạng.

Giờ đây Ngài đã đi đến Lục Địa Dakini,

Và Tây Tạng trở thành một nơi mất mát, trống rỗng.

Kho tàng lớn lao nhất đã đi đâu?

Mặc dù một cách tối hậu thì không có gì là đi hay ở,

Nhưng hôm nay Ngài đã đi vào cõi Orgyan.

“Mặt trời đó đã sưởi ấm xứ Tây Tạng,

Tỏa sáng trên cả trời và người,

Mặt trời đã lặn mất.

Giờ đây ai sẽ sưởi ấm chúng con, những kẻ hoàn toàn trơ trọi?

Người Tây Tạng kém phước đã mất đi đôi mắt.

Giờ đây, ai sẽ là người dẫn dắt chúng con, những kẻ mù lòa, đơn độc?

Trái tim chúng con đã bị xé rách từ lồng ngực của chính mình.

Giờ đây ai sẽ dẫn dắt những xác chết vô hồn này?

Ngài đã đến đây làm lợi ích chúng sinh.

Tại sao Ngài không thể nán lại thêm một thời gian ngắn nữa?

“Kye Hud! Hỡi Orgyan Rinpoche!

Một thời điểm bóng tối dày đặc đã đến với Tây Tạng:

Một thời điểm khi các am thất trống rỗng;

Một thời điểm khi Pháp tòa bị bỏ trống;

Một thời điểm khi những quán đảnh tịnh bình không còn nữa.

Bây giờ chúng ta chỉ có thể đoán mò về bản tánh sự vật;

Bây giờ chúng ta phải tìm kiếm sách vở cho những giáo lý;

Bây giờ chúng ta chỉ có thể quán tưởng vị Lama;

Bây giờ chúng ta phải sử dụng những hình ảnh như sự thay thế cho Ngài;

Bây giờ chúng ta phải dựa vào những giấc mơ và linh kiến;

Bây giờ, một thời gian đau khổ đã đến!

Than ôi! Hỡi Đấng Chúa Tể Jetsun Orgyan!

Xin hãy nhìn lên con với lòng bi mẫn!”

Và khi cô cầu nguyện, từ phía tây nam, một ánh sáng tỏa rạng và dừng lại ngay trước mặt cô. Trong đỉnh tia sáng là một chiếc hộp dài khoảng một inch. Đây là di sản thừa kế thứ 3 của Đạo Sư. Việc nó xuất hiện đã tạo ra một niềm tin sâu sắc trong trái tim cô – tất cả mọi bất an nội tâm cùng bất ổn về cảm xúc đều được xóa tan. Cô đã chứng ngộ sự vô nghĩa về ý niệm trong việc phải ở cùng hay chia tách với Vị Thầy. Với sự tôn kính lớn lao, cô đã khai mở mạn đà la Lama Sangwa Dupa và thực hành trong ba tháng. 6 thời trong suốt cả ngày lẫn đêm của thời kỳ này, Đức Guru Rinpoche đều xuất hiện trước cô ban lời khuyên về các giáo lý cùng những tiên tri.

Cảm thấy đầy tràn những ân phước của Đạo Sư, Tsogyal sau đó đã đi vào thực hành sadhana Yang Phur cùng những lời cầu nguyện và sám hối liên quan đến chúng. Cô đã xóa đi tất cả mọi trở ngại gây che chướng cho các giáo lý cao cấp và cô đã thực hành sadhana lưỡi dao Dorje Zhonnu mà Đức Padmasambhava đã ban cho cô. Khi cô hoàn thành, cô đã ban những giáo lý này cho De-ba-mo cùng những người khác may mắn khác có đức tin. Tsogyal đã để lại cả dòng truyền thừa khẩu truyền và kho tàng ở nơi đó.

Sau này, Tsogyal đã đi đến Mang-yul, với niềm hoan hỷ to lớn của tất cả những người có đức tin, đặc biệt là những người trước đây đã từng là đệ tử của cô ở đó. Họ đã dâng lên cô nhiều cúng dường và thỉnh cầu cô ở lại với họ luôn. Nhưng cô chỉ ở lại một tháng, quét sạch những chướng ngại cho các đệ tử của mình, phát triển những tiềm năng của họ đến mức tối đa, cô ban truyền nhiều huấn thị đạt đến giác ngộ. Sau đó cô lên đường đi Tsang.

Trong một thời gian, Tsogyal lang thang qua những vùng biên giới giữa Tsang và Mang-yul, tất cả những người dân ở đó đã chào đón cô, họ nói: “Đạo Sư đã đi đến Xứ Quỷ, nhưng Công Chúa đã ở lại cùng chúng ta!” Họ có niềm tin Tsogyal là một với Đức Guru Rinpoche và tụ tập đông kín quanh cô khiến cô khó có thể đi bộ được. Cô đã ban cho họ tất cả những chỉ dẫn và mang lại rất nhiều lợi ích cho họ.

Sau đó, cô đã đi đến các khu vực Zur và lưu lại đây trong một năm, giảng dạy cho Nyan Dza-Jamyang, Be Yeshe Nyingpo, Lasum Gyalwa Wangchub, Obran Dza-gyi Zhonnu (người sau đó), Langlab Wangchub-Dorje và Da Charupa Dorje, một cậu bé 7 tuổi đã biểu lộ triển vọng lớn. Thấy họ là những bình chứa xứng đáng, cô đã ban cho họ những giáo lý thuần thục cùng giải thoát.

Tsogyal đi tiếp tới Shang. Cô ở lại trong những hang động Pana Gang trong ba năm và làm nhiều việc lợi ích cho chúng sinh. Sau đó cô đã ghé thăm Zabbu, nơi cô ở lại một năm trong sự thiền định của Thừa Ati viên mãn không dụng công, thể nghiệm lòng từ bi và sự hỷ lạc cực điểm mà chưa bao giờ cô từng có, điều này đã đến cùng với sự chứng ngộ cao hơn. Cô đã cất giấu 30 terma lớn ở đó.

Cô tiếp tục đi Zhoyi Tigro, ở lại đó trong 6 năm; cô đã thể nghiệm Rigpa-tshad, sự chứng ngộ thứ 3 của Ati và in dấu Đại Viên Mãn trong tâm cô. Cô đã làm lợi lạc cho nhiều Dakini và đã ghé thăm 62 cõi trời. Chi tiết về phần này sẽ không được nêu ra ở đây mà sẽ được tìm thấy trong các bản văn khác.

Vào lúc này, Tsogyal đã mang trên thân những đau khổ của người khác. Ví dụ, tên quan độc ác Shantipa, người đã gây ra nhiều đau khổ cho Tsogyal trước đó, hắn đã bị tái sinh vào một trong những địa ngục nóng. Bằng nỗ lực lớn lao cùng năng lực từ bi của mình, cô đã kéo hắn ra khỏi địa ngục. Không chút phân biệt, cô cũng đã giải thoát cho nhiều chúng sinh địa ngục khác. Bạn phải tìm ở nguồn khác về những câu chuyện này.

Cô đã cho đi thân thể mình tới những con thú hoang, quần áo cho những người lạnh và thức ăn cho người đói. Với người bệnh, cô cho thuốc; với người nghèo, cô cho sự giàu có. Với những người quyền lực thấp bé, cô bảo vệ họ và với những người có khát khao lớn, cô cho đi thân thể mình. Cô đã cho đi thân thể và cuộc sống của mình theo bất cứ cách thế nào để làm lợi ích cho những chúng sinh khác. Không bận tâm về bản thân, cô thậm chí còn cho cả các bộ phận giác quan của riêng mình nếu chúng có thể được sử dụng. Vua Trời Đế Thích Sakra và Long Vương Nanda đều canh giữ cho cô.

Một lần, khi cô ở Tigro, ba người đàn ông đã tới gần cô mang theo một người què.

Cô hỏi họ những gì đã xảy ra và họ giải thích: “Chúng tôi đến từ Onphu, Tây Tạng, Nhà vua đã ra lệnh người đàn ông này phải bị trừng phạt bằng cách rút xương bánh chè. Một người Tây Tạng thông thái vĩ đại đã nói với chúng tôi rằng chỉ có xương bánh chè của một người nữ mới có thể giúp được anh ta, nếu không thì không có hy vọng. Cô ơi, người ta nói rằng cô sẽ cho đi bất cứ điều gì cho những ai cần. Vì vậy, chúng tôi đã đến với cô. Cô có thể cho chúng tôi những gì chúng tôi xin được không?”

Nhìn vào người què, Tsogyal thấy những vết sẹo thuôn dài trên đôi chân của anh ta và cô cảm thấy lòng từ bi lớn lao phát sinh trong tim mình. Cô nói, “Các ông có thể lấy từ tôi bất cứ điều gì các ông cần,” “Vì tôi đã hứa với Thầy của mình sẽ luôn hành động vì lợi ích cho chúng sinh bằng thân, khẩu và tâm mình.”

Vì vậy, họ đã lấy một con dao. “Chúng tôi cần phải cắt những vết mổ lớn trên thân thể cô. Nó sẽ rất đau đớn … cô có thể chịu đựng được không?”

“Bất cứ điều gì cần phải làm, hãy để nó diễn ra,” cô trả lời.

Đầu tiên, họ cắt ngang phần trên đầu gối và sau đó kéo xương bánh chè ở đầu gối ra với một tiếng bốp to. Khi họ xếp những vật màu đỏ xuống trước Tsogyal, trong một khoảnh khắc cô đã tắt thở vì đau đớn. Nhưng rồi cô đã tỉnh lại và bảo những người đàn ông hãy lấy chúng đi. Họ vô cùng mừng rỡ và rời đi. Sau một thời gian, đầu gối của cô lại lành lại.

Một người đàn ông khác đến với cô, một người cùi trong tình trạng vô cùng khủng khiếp – thân thể lở loét, máu và mủ phun ra, mũi và miệng không có gì ngoài một vết thương sâu hoắm. Ông ta nồng nặc mùi thối rữa và đang khóc than.

“Tại sao ông khóc?” Tsogyal hỏi. “Đây là nghiệp của ông, sẽ vô ích để khóc lóc. Sẽ tốt hơn và giúp được ông nhiều hơn khi ông thực hành một số phương pháp tâm linh.”

“Vâng, bệnh tật thì ở khắp mọi nơi trên thế gian này,” ông ta trả lời. “Nhưng căn bệnh này không phải là vấn đề duy nhất của tôi.”

“Vậy vấn đề là gì?” cô hỏi.

“Căn bệnh này đã đổ lên tôi tất cả một cách đột ngột và rất mạnh mẽ. Tôi đã có một người vợ xinh đẹp giống như cô; cô ấy trông giống một nữ thần. Khi tôi mắc căn bệnh khủng khiếp này, cô ấy sẽ không còn ở bên tôi nữa mà sẽ chạy đi lấy một người chồng khác. Tôi đã nghe nói rằng cô chỉ sống để giúp đỡ chúng sinh, và vì vậy tôi đến đây để xin cô hãy trở thành người phụ nữ của tôi. Cô có nghĩ rằng cô có thể chịu đựng được tôi không?”

Một lần nữa, Tsogyal cảm thấy lòng bi mẫn lớn lao, và cô đã trả lời: “Đừng khóc!

Bất kể những gì ông nói, tôi sẽ cố gắng làm.” Và như vậy cô đã hầu hạ ông ta.

Theo cách như vậy, Tsogyal đã hy sinh bản thân mình nhiều lần.

Một lần 7 Bonpo đến và nói: “Chúng tôi cần da của cô cho một buổi lễ chuộc” Vì vậy, cô đã đưa da của mình cho họ. Tương tự như vậy, cô đã bị hỏi xin nhiều lần cho mắt, đầu, tay và chân, lưỡi, v.v… Nhiều người hành khất đã đến với cô và cô luôn bố thí cho họ một cách vui vẻ với những ban phước.

Sau đó, Vua Trời Indra đã đến và dâng lên cô sự giàu mạnh của các vị thần gồm: 5 loại gấm vóc lụa là trên cõi trời, bình chứa đầy cam lồ bất tử cùng 7 loại châu báu trên trời. Tán thán cô, ông nói:

“Cô Gái thật quá sức kinh ngạc,

Được trang hoàng với những dấu hiệu cát tường,

Hành năng của cô là hành năng của chư Đại Bồ Tát trong quá khứ.

Không chút bám chấp vào thân thể hay sống chết,

Cô dâng hiến bản thân mình cho người khác.

Bậc Nữ Anh Hùng, Nữ Hoàng Bi Mẫn, tôi xin quy y nơi cô.

“Kỳ diệu và tối thượng, tôi tán thán cô trên tất cả những người khác –

Tôi sẽ bảo hộ cô từ giờ cho tới khi kết thúc đại kiếp.

Xin cô, Nữ Hoàng Quán Đảnh,

Xin hãy trụ thế và xoay chuyển Pháp Luân –

Tôi chân thành xin cô, xin hãy ở lại và dạy bảo chúng sinh!”

Vua Trời Indra đã nói như vậy và sau đó biến mất. Đồng thời, tất cả những vết thương của Tsogyal đều được chữa khỏi, cô lại trở nên tuyệt vời như trước.

Sau đó, người phong cùi đã biến thành Long Vương Nanda, ông ta đã chất đầy vô số của cải của loài rồng trước Tsogyal. Chắp hai tay mình lại trong đức tin cùng sự sùng mộ, với đôi mắt đẫm lệ, ông nói với cô:

“Kye Ma! Hỡi Guru Yeshe Tsogyal-ma!

Ngài là chìa khóa bí mật của Đức Padmasambhava.

Trong lòng từ bi của mình, ngài đã nhận lấy những đau khổ của người khác.

Ngài không phê phán cũng không chấp chặt vào thanh tịnh hay bất tịnh;

Ngài chỉ quan tâm tới lợi ích của những người khác,

Và ẩn mật bất cứ tình yêu thương nào ngài có cho bản thân mình.

Hỡi Vị Phật Phối Ngẫu, Nữ Hoàng Giáo Lý, tôi xin đảnh lễ tới ngài!

“Đức Padma Thod-phreng là Thầy của chúng ta.

Ôi Người Chị Pháp, xin hãy nhìn lên tôi với lòng bi mẫn.

Trong ngài ngự đại dương những giáo lý bí mật Phật Pháp!

Ngài trì giữ ý nghĩa thậm thâm các kho tàng giáo lý Liên Hoa.

Do sự lãnh hội của ngài, Giáo lý Đức Liên Hoa không thoái trào

Mà vẫn tiếp tục lan tỏa.

“Chừng nào ngài còn trụ thế, chừng nào tôi còn sống,

Tôi sẽ đi theo ngài, bảo vệ và thủ hộ cho ngài.

Nguyện thành tựu được cát tường, và sự sai trái bị đảo ngược!”

Ông đã nói như vậy và biến mất.

Khi con trai của vua Trisong Deutsen nghe tin Tsogyal đang ở Tigro, anh đã gửi tới cô một lời thỉnh mời. Và vì vậy cô đã đến Samye, ở lại Chimphu trong 6 năm. Đại Pháp Vương Mutri Tsanpo, các vị lotsawa chính yếu, các bộ trưởng tiểu bang, giới quý tộc và các hoàng hậu cũng như chúng dân Tây Tạng, tất cả đều cư xử với cô trong sự tôn kính, trân trọng lớn lao, họ cũng đã thỉnh cầu những ân phước của cô.

Các hành giả thuộc thế hệ đầu tiên thực hành ở Chimphu từ lâu kể từ khi hoàn thành tốt đẹp những thực hành của mình, họ đã đạt được mục đích tu tập và ban rải những lợi ích cho những người khác. Một số đã nhập niết bàn, một số đã cao tuổi và chỉ còn một số ít người còn lại. Nhưng một lần nữa, các tăng sĩ mới đã được thụ phong theo lệnh của Pháp Vương: 1.500 người đã được tấn phong cùng lúc và Đức Kamalashila thông thái đã đến từ Ấn Độ để trở thành bậc trụ trì. Tsogyal tiếp tục hành thiền ở Chimphu, ban truyền các giáo lý và giúp chúng đệ tử phát triển thành tựu thần lực và trưởng thành trong thực hành của họ.

Vào thời điểm này, một cuộc tranh chấp đang diễn ra về giá trị quan điểm ston-min với quan điểm rtsad-min. Một tăng sĩ tên là Huashang, bậc thầy của trường phái ston-min đã đưa ra quan điểm tà kiến; những điều này bị bác bỏ và nhóm thua cuộc bị từ chối. Cuộc tranh luận giữa hai luận thuyết này được tổ chức ở Samye với vị thầy Kamalashila nhằm bảo vệ quan điểm rtsad-min ở điện thờ Đức Hayagriva, và Huashang đã tranh luận vị trí của mình từ điện thờ Đức Di Lặc Maitreya.

Như Tsogyal kể lại sau này, cô đã xuống núi từ Chimphu cùng với 100 người theo sau với hy vọng hòa giải cuộc tranh chấp, nhưng không ai chịu nghe cô. Nhờ sự minh chứng những những thành tựu thần lực và các hóa hiện kỳ diệu, cô đã cố gắng mang những tín đồ của ston-min và rtsad-min lại với nhau nhờ biểu hiện đức tin.

Nhưng điều này không thành công và các giáo lý Phật Pháp cùng những nguyên lý của vị thầy Kamalasila đã được thiết lập chính xác. Huashang và những người đi theo ông đã được ban cho vàng ròng và được hộ tống đến biên giới Trung Hoa – đất nước của họ.

Sau đó, dưới ảnh hưởng của Pháp Vương vĩ đại, các trung tâm Pháp ở Lhasa, Samye, Khra-Brug và những nơi khác đã tiếp tục được mở rộng. 13 ngàn người mới đã gia nhập Tăng đoàn.

Tsogyal sau đó đã trải qua một khoảng thời gian ở Chimphu và Ngari, Mang-yul và Purang, Mon và Tsang, Byar và Loro, 4 vùng của Bu và Tsang, 4 vùng của Wangchub-kha, 6 dãy núi Do-Kham, trong Gya, Jang, Hor và Me-nyag v.v., tất cả đều là những nơi trước đây Đức Guru Rinpoche đã ban những giáo huấn và thọ phong cho các đệ tử. Tsogyal cũng đã làm như vậy, cô giảng dạy cho các đệ tử cũ và tấn phong cho các tăng sĩ mới, những người có đức tin nơi Guru Rinpoche. Cô đã làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, dòng truyền thừa của cô phủ lấp toàn bộ xứ sở.

Để hoàn thành những nhiệm vụ của mình liên quan đến các kho tàng Giáo Pháp và để giúp tất cả chúng sinh không chút phân biệt, Tsogyal đã ghé thăm nhiều địa điểm linh thánh nhỏ bé cùng những chốn ẩn cư bí mật. Chính cô đã thuật lại việc cô đã du hành và cất giấu những kho tàng Phật Pháp như sau:

“Tôi đã làm hết sức mình để làm lợi ích cho các giáo lý và lợi ích chúng sinh. Theo những tiên tri của Đạo Sư, một nửa cuộc đời tôi đã qua đi. Tôi đã đạt được chứng ngộ Rigpa Yang-tshad, Pyodpa Yang-tshad. Và rồi tôi đã quyết định đi đến tất cả những nơi chốn Đức Guru Rinpoche đã đích thân ban phước. Ở những nơi này, tôi đã để lại các kho tàng Pháp Bảo và gia trì thêm sự ban phước của mình, tôi cũng thực hiện các thực hành.

“Đầu tiên, tôi đã đến Tigro, nơi tôi đã ở lại 1 năm 7 tháng. Ở đó, tôi đã cất giấu 10 terma và thực hành, cầu nguyện cho lợi ích chúng sinh. Sau đó, tôi đã đến khu vực biên giới và cất giấu 5 terma trong động pha lê ở Yarlung. Tôi đã ở lại đó trong thiền định suốt 13 tháng. Sau khi gia trì nơi đó, tôi đã tới Yang Dzong, nơi tôi đã ở lại trong một năm và cất dấu 13 terma. Ở Yerpa tôi đã ở lại một tháng và cất giấu trọn vẹn 10 terma.

“Cứ thế, tôi đã du hành trên những ngọn núi tuyết Tsa-ri ở phía đông, nơi tôi đã ở lại 1 năm 4 tháng và cất giấu 30 terma vĩ đại. Sau đó, tôi đã đến xứ Kong-po và cất giấu 150 terma. Tôi đã đến những ngọn núi lớn ở phía Nam Nepal, nơi tôi lưu lại 13 tháng và cất giấu 35 terma. Sau đó, tôi đã đến những ngọn núi lớn và vượt qua biên giới phía tây, ở lại 4 tháng 7 ngày và tôi đã cất giấu 8 terma. Tôi đã đến những ngọn núi vĩ đại trong các xứ quỷ gần biên giới phía bắc, ở lại 3 tháng 5 ngày và cất giấu 3 terma.

“Tôi đã đến Thung Lũng Các Vị Vua ở vùng núi phía đông nam, nơi tôi đã ở lại 1 năm 15 ngày và cất giấu 10 terma. Tôi đã du hành đến thung lũng Graphu ở phía tây nam, lưu lại 5 tháng 10 ngày và cất giấu 7 terma. Sau đó, tôi đã đến thung lũng Jagna ở phía tây bắc, ở lại 1 năm 5 tháng và cất giấu 9 terma lớn. Sau đó, trong thung lũng Groma ở phía đông bắc, tôi đã ở lại 11 tháng và cất giấu 5 terma. Tôi đã trải qua 1 tháng 10 ngày ở núi tuyết Yarbu và cất giấu 3 terma. Tôi đã trải qua 1 năm ở vùng núi tuyết Salje vĩ đại và cất giấu 10 terma. Trên những ngọn núi và thung lũng Yu, tôi đã ở lại 3 tháng và cất giấu 3 terma. Trên những ngọn núi và thung lũng Brong-rje, tôi đã ở lại 10 ngày và cất giấu 3 terma. Trên các ngọn núi và thung lũng Gyul, tôi đã ở lại 3 tháng và cất giấu 4 terma.

“Ở những ngọn núi lớn và thung lũng Jomo, tôi đã trải qua 5 tháng và cất giấu 10 terma. Trong Nyebo tôi đã ở lại 5 tháng và cất giấu 4 terma. Ở núi Dza-yul tôi đã ở lại trong 21 ngày và cất giấu một terma. Ở những ngọn núi Nanam, tôi đã trải qua 7 tháng và cất giấu 5 terma. Trên các núi Lho-rong, tôi đã ở lại 3 tháng 7 ngày và cất giấu 13 terma. Ở vùng núi Rong-tsan, tôi đã trải qua 7 tháng và cất giấu 15 terma. Trong những ngọn núi Shel-wang tôi đã trải qua 2 tháng 10 ngày và cất giấu 5 terma. Ở vùng núi Gam-po, tôi đã trải qua 1 năm 1 tháng 1 ngày và cất giấu 20 terma.

“Ở miền núi Bye-phu, tôi đã trải qua 1 tháng và cất giấu 14 terma. Ở vùng núi Bubol, tôi đã ở lại 21 ngày và cất giấu 3 terma. Ở vùng núi Seng-phrom, tôi đã ở lại 7 ngày và cất giấu 2 terma. Ở vùng núi Tsho-nag tôi đã ở lại 24 ngày và cất giấu 1 terma.

“Tương tự như vậy, trong thung lũng Ma-kung ở phía đông, tôi đã trải qua 1 tháng và cất giấu 13 terma. Và ở Ba-chag-sri miền Nam, tôi đã trải qua 1 năm và cất giấu 7 terma. Trong thung lũng Brang-man ở phía tây, tôi đã lưu lại 1 tháng và cất giấu 3 terma. Tại Se-mo-do miền Bắc, tôi đã ở lại 3 tháng và cất giấu 4 terma.

“Tôi đã đặt terma ở những nơi khác như: Ở phía trên Tsa-ri rong và miền trung Kharag-rong và hạ Gere-rong, ở Phagri-rong, Bhutan và Buchu-rong, Kong-po và Bag-yul-rong, Pubo. Ở Ldan-gyi Dorje-rong và Phyam-kyi Nabun-rong, ở Nering Senge-rong và Yari Brag-Mar-rong, Kaling Pinpo-rong, Lhari Yuru-rong, Lto-la

Pal-bar-rong, Rekhai Bumo-rong, Bragmar-rong ở Gling, Lhabrag-rong ở Bri, Bragkar-rong ở hạ Kongpo và v.v…, tôi đã ở lại 1 tháng 1 ngày và ban các giáo lý đồng thời cất giấu các terma.

“Và ở 8 kho tàng lớn: Bra-mo shong ở Nepal, Padma-kod ở Klo-yul, thung lũng Zabbu ở Shang, Gobo jong ở Mad, Gyalmo Mudo jong, Lhamo Dngul-khang jong, thung lũng Gyalung Jogpo và thung lũng Buldum ở Bhutan, tôi đã ở lại trong 1 năm ban các giáo lý, tạo tiền đề và cất giấu nhiều terma.

“Ở 25 ngọn núi tuyết lớn và 4 địa điểm ban phước, ở 18 pháo đài lớn và ở 108 địa điểm năng lực của Guru Rinpoche, tôi đã thực hành trong 1 năm 1 tháng 1 ngày, cất giấu terma và cầu nguyện cho sự sung túc của khu vực.

“Đặc biệt, ở vùng biên giới Do-Kham, ở 8 nơi nằm trong 8 dấu hiệu ban phước của Đạo Sư, ở 5 địa điểm của 5 cấp Thod-phreng-rtsal, tại 12 địa điểm của những hành năng thu hút vĩ đại, ở 3 nơi ân phước của những giáo huấn khẩu truyền và v.v…, trong các khu vực nơi giáo lý thuần tịnh của Đạo Sư mở rộng, tôi đã ban phước và cất giấu các terma.”

Và ngoài ra, trải khắp Tây Tạng, ở 105 địa điểm thiêng liêng vĩ đại và 1.070 nơi chốn linh thiêng nhỏ hơn cùng nhiều triệu địa điểm khác, Tsogyal đã thực hành, cầu nguyện và cất giấu các terma. Nhưng tên những địa điểm này không bao gồm ở đây vì e rằng sẽ làm cho bản văn trở nên quá dài. Trong vòng ngoài Tây Tạng cũng như các địa điểm trung tâm như Samye, Lhasa, Khra-brug và v.v…, cô đã cất giấu nhiều terma, nhưng ta nên tìm chúng ở các nguồn khác như Terma – Wangchub và tiểu sử của Guru Rinpoche để biết thêm chi tiết.

Điều Này Kết Thúc Chương 7

Liên Quan Đến Những Hành Năng của Yeshe Tsogyal Vì Lợi Ích Chúng Sinh.

Đức Namkhai Nyingpo Rinpoche

Trích trong Bà mẹ trí tuệ

Comments are closed.

MẠNH MẼ ĐỂ GIÁC NGỘ - BE POWERFUL TO ENLIGHTEN
Thông tin liên quan đến dòng Truyền Thừa Ripa Vinh Quang đã được Đức Pháp Vương - Đại Khai Mật Tạng Terchen Namkha Drimed Rabjam Rinpoche ban phước. Cầu mong kho tàng giáo lý Terma thâm diệu của dòng Truyền thừa Ripa Vinh Quang sẽ làm an dịu mọi nổi thống khổ của chúng sinh mẹ tại đất nước Việt nam thân yêu.

Om Ah Hung Maha Sengha Mani Radzaa Sarwa Siddhi Phala Hung