Phần thứ ba của sự rèn luyện tâm trong thực hành sơ khởi bên ngoài và bên trong:
Sự Rèn Luyện Tâm Đặc Biệt Về Đạo Sư Du Già
Điều này gồm bảy phần.
1) Tinh túy và kết quả của Đạo Sư Du Già.
2) Tịnh hóa nhận thức bất tịnh về địa điểm.
3) Tịnh hóa nhận thức bất tịnh về bản thân.
4) Tịnh hóa nhận thức bất tịnh về đạo sư.
5) Chín muồi bản thân nhờ bảy nhánh.
6) Cầu nguyện thiết tha.
7) Thọ bốn quán đỉnh.
Tinh Túy Và Kết Quả Của Đạo Sư Du Già
Đạo Sư Du Già nghĩa là thiền định về đạo sư. Đó là thực hành quan trọng của việc thiền định về đạo sư và sau đó, gia trì của thân, khẩu và ý Ngài thâm nhập thân, khẩu và ý của bạn dưới dạng ánh sáng và chủng tự.
Cách thức mà người ta nương tựa một đấng dẫn dắt tâm linh đã được giải thích ở trên và bạn cần biết rõ theo cách đó[1]. Sự nương tựa đấng dẫn dắt tâm linh như vậy sẽ hữu ích với thiền định Đạo Sư Du Già.
Mục tiêu và kết quả của Đạo Sư Du Già là để tâm của chính bạn hòa quyện bất khả phân với bản tính của trí tuệ vĩ đại, tức tâm của đạo sư. Vì vậy, với niềm tin và sự tận tụy mạnh mẽ, bạn cần tiến hành thiền định này lặp đi lặp lại nhiều lần và sau đó, bạn chắc chắn sẽ đạt đến điểm cốt yếu đó lúc cuối.
Điều phải được lặp lại ở đây là tính cần thiết của việc có niềm tin bất biến với đạo sư. Mọi người đều dạy giống nhau với cùng quan điểm, tức là, không có niềm tin xác thực và nhận thức thanh tịnh, bạn sẽ chẳng thể nào thọ nhận lòng bi mẫn và gia trì. Đây dứt khoát là một duyên khởi sâu xa.
Kinh văn nói rằng:
Mặc dù có nhiều thiền định giai đoạn sinh khởi,
Chẳng có thiền định nào cao hơn thiền định về đạo sư.
Mặc dù có nhiều thiền định giai đoạn hoàn thiện,
Chẳng có gì cao hơn hoàn toàn tin tưởng và giao phó[2].
Kinh văn cũng nói rằng trong tất cả các thiền định, thiền định với niềm tin về đạo sư chứa đựng nhân tố trọng yếu nhất, rằng không nương tựa đạo sư sẽ chẳng có chư Phật, và rằng thiền định về đạo sư có gia trì lớn lao hơn thiền định về tất cả chư Phật.
Hiển Bày Đại Ati nói rằng:
Bất kể người ta thiền định rằng
Đạo sư từ ái hiện diện ở đâu,
Dù trên đầu hay trong tim,
Trên lòng bàn chân hoặc lòng bàn tay,
Cá nhân đó sẽ sở hữu
Thành tựu của một nghìn vị Phật.
Như thế, về cơ bản, điều cần thiết là ý thiền định với niềm tin, khẩu cầu nguyện với niềm tin và thân đỉnh lễ với niềm tin và v.v.
Đức Shepa Dorje[3] nói rằng:
Kẻ mong muốn trí tuệ vô quan niệm
Nhưng lại chẳng cầu nguyện đến đấng bảo hộ,
Thì giống như hang động hướng về phía Bắc chờ đợi mặt trời,
Và sẽ chẳng có lúc nào mà hình tướng và tâm sẽ hòa quyện.
Tịnh Hóa Nhận Thức Bất Tịnh Về Địa Điểm Của Bạn
Hãy quán tưởng rằng những hình tướng bất tịnh của địa điểm nơi bạn đang ở biến mất và nó trở thành cung điện lớn thanh tịnh Liên Hoa Quang trên đỉnh Núi Huy Hoàng Màu Đồng. Nó tràn ngập ánh sáng cầu vồng, không phân biệt giữa bên ngoài, bên trong và ở giữa. Nó hình vuông, với bốn cửa và mái cổng, và với lọng có đỉnh ngọc báu. Những bức tường được làm từ các ngọc báu quý giá: tường phía Đông từ pha lê; tường phía Nam lưu ly; tường phía Tây hồng ngọc còn tường phía Bắc ngọc lục bảo. Có tất cả những phẩm tính của một cung điện của ba thân, với tầng thượng là Pháp thân, tầng giữa Báo thân và tầng trệt là Hóa thân. Có hàng ngũ đầy đủ của một cung điện linh thiêng, bao gồm sân, với các tháp ở góc và v.v. Toàn bộ nhận thức của bạn ngập tràn ánh sáng rực rỡ từ cung điện Liên Hoa Quang.
Tịnh Hóa Nhận Thức Bất Tịnh Về Bản Thân Bạn
Bạn tiêu trừ những nhận thức bất tịnh về bản thân và thiền định rằng bạn đã trở thành một Không Hành Nữ trí tuệ. Ở trung tâm của cung điện linh thiêng, có một bông sen bung nở và giữa bông hoa là chính bạn, Dakini Yeshe Tsogyal trong hình tướng của một Hợi Mẫu Kim Cương đỏ. Hãy thiền định rằng Bà có một mặt và hai tay, và ba mắt hài lòng ngắm nhìn khuôn mặt của đạo sư. Bà đứng trong tư thế mà chân phải hơi bước về phía trước. Bà không có y phục trên thân, như một dấu hiệu rằng Bà không bị che lấp bởi ba thời. Bà đeo trang sức xương và một tràng hoa sen dài, bởi Bà không bị những lỗi lầm của luân hồi vấy bẩn. Tay phải Bà nâng trống (Damaru) hướng về bầu trời như là biểu tượng của việc đã tỉnh dậy từ giấc ngủ vô minh. Bà để dao cong tựa hông như là biểu tượng của việc đã cắt đứt mạng lưới của thế gian. Thân Bà xuất hiện sống động mà không có tự tính, giống như hình phản chiếu trên gương.
Chúng ta thiền định rằng chúng ta là Yeshe Tsogyal trong hình tướng của Kim Cương Du Già Nữ bởi Không Hành Nữ Yeshe Tsogyal là vị có niềm tin lớn nhất trong tất cả các đệ tử của Thượng Sư. Kim Cương Trì Patrul cũng nói đến lý do khác – duyên khởi cát tường đặc biệt để là bình chứa thích hợp cho quán đỉnh, để phát triển và duy trì trí tuệ của lạc – Không.
Tịnh Hóa Nhận Thức Bất Tịnh Về Đạo Sư
Chúng ta tiêu trừ nhận thức bất tịnh về đạo sư của chúng ta, đấng dẫn dắt tâm linh của chúng ta và thiền định rằng Ngài có bản tính của một vị Tôn.
Trong không trung, cách khoảng cách bằng chiều dài cây tên phía trên đầu của chính bạn, đang được quán tưởng là Kim Cương Du Già Nữ, có một bông hoa sen với trăm nghìn cánh bung nở nhiều màu. Trên nhị hoa, có một đĩa mặt trời và một đĩa mặt trăng là ngai tòa hoàn hảo. Trên đó, về tinh túy chính là Bổn Sư của bạn, vị có lòng từ vĩ đại, vô song, trong hình tướng của Orgyen Rinpoche, vị mười sáu tuổi, mặt ửng hồng và với sự chói ngời oai nghiêm – mỉm cười. Ngài có một mặt và hai tay. Trên thân, Ngài mặc “y phục thọ kim cương”: một áo choàng, ba Pháp y và một áo choàng không tay bằng gấm. Trên đầu, Ngài đội chiếc mũ được gọi là “những cánh hoa của Ngũ Bộ” hay “Liên Hoa giải thoát khi nhìn ngắm”, thứ có trang sức kim cương trên đỉnh và đỉnh lông kền kền. Tay phải của Ngài, trong ấn đe dọa, cầm chày kim cương vàng năm chấu nơi tim. Tay trái cầm Kapala mà trong đó có bình chứa đầy cam lồ bất tử. Miệng bình được điểm tô bằng cây như ý nguyện. Trong khuỷu tay trái, Ngài ôm chĩa ba Khatvanga, về tinh túy là Yeshe Tsogyal, Không Hành Nữ của lạc và Không. Hai chân Ngài ngồi trong tư thế vương giả tự tại. Ngài tràn đầy ánh sáng chói ngời bất tận và mỗi sợi tóc đều rõ ràng và màu xanh sậm. Lòng trắng và đen trong mắt Ngài rõ ràng; và với tính Không chẳng hề bị phá vỡ, từng sợi lông trên thân Ngài cho đến khuôn mặt mỉm cười của Ngài đều hiện diện sống động như một ảo ảnh.
Xung quanh Ngài là tất cả chư đạo sư của truyền thừa Dzogchen, chư Tam Căn cùng với tập hội chư bảo hộ theo thệ, giống như một đám đông lớn.
Chư vị hiện diện rõ ràng, sống động và sáng ngời, như đĩa mặt trời mỉm cười giữa những đám mây nhiều màu trên bầu trời quang.
Hãy tụng Lời Cầu Nguyện Bảy Dòng, điều có gia trì lớn, và sau đó, từ ba chủng tự tại ba nơi của chư Tôn được quán tưởng, hãy phóng ánh sáng triệu thỉnh từ Núi Màu Đồng ở Akanishtha, Lama Guru Rinpoche, chư Trì Minh nam và nữ cùng với chư Bổn tôn Tam Căn. Hãy quán tưởng chư vị hòa quyện bất khả phân với “Thệ Nguyện” Tôn được quán tưởng như mưa rơi xuống hồ nước.
Chư Trí Tuệ Tôn trở nên bất khả phân với Thệ Nguyện Tôn, như nước rót vào nước, và những vị Tôn mà bạn thiền định về giờ đây là chư Tôn chân thật, không có bất kỳ phân biệt nào về phẩm tính. Sau đó, hãy thu thập các tích lũy và tịnh hóa những che chướng nhờ lời cầu nguyện bảy nhánh trước sự hiện diện của chư vị.
Chín Muồi Bản Thân Bạn Nhờ Bảy Nhánh
1) Nhánh đỉnh lễ
Bạn nhân thân mình lên như số hạt vi trần của thế gian và các thân này đỉnh lễ đến đạo sư và vị Tôn bất khả phân. Với sự kính trọng của thân, khẩu và ý, bạn chắp tay lại và chạm vào mặt đất bằng năm điểm của thân và v.v. cúng dường sự lễ lạy làm hài lòng thực sự hay cúng dường lễ lạy trong tâm.
Kinh văn nói rằng nhục kế vô hình của Đức Thế Tôn đến từ việc đỉnh lễ và tỏ lòng tôn kính với sự kính trọng vị đạo sư.
2) Nhánh cúng dường
Hãy quán tưởng rằng bạn dâng cúng dường lên tập hội linh thiêng của chư đạo sư gốc và truyền thừa cùng với chư Trì Minh, chừng nào mà hư không còn tồn tại, bất cứ cúng dường nào mà bạn sở hữu, chẳng hạn hoa, hương, ánh sáng và nước thanh tịnh, và bất cứ thứ gì tự nhiên hiện diện trên thế gian, dù được sở hữu hay không, và tất cả vô số chư thiên nữ cúng dường cầm những món cúng dường ở đầu của những tia sáng màu sắc khác nhau, hóa hiện từ tim bạn. Từ những thiên nữ này, tia sáng phóng ra theo cách thức tương tự, với vô số thiên nữ cúng dường ở đầu của những tia sáng này, tất cả đều cầm những cúng dường bên ngoài, bên trong và bí mật.
3) Nhánh sám hối ác hạnh
Điều này liên hệ với giáo lý trước đó về thiền định và trì tụng Chân ngôn Kim Cương Tát Đỏa. Về cơ bản, điều này nghĩa là nghĩ về ác nghiệp mà bản thân bạn và tất cả chúng sinh khác tích lũy suốt các đời từ vô thủy, mười ác hạnh, năm hành động với kết quả tức thì vào lúc chết, năm hành động xấp xỉ vậy, bốn hành động nghiêm trọng, tám hành động đối nghịch, ô uế tài sản của các Bảo và những vi phạm khác, và nghĩ rằng bạn sẽ không che giấu hay giấu giếm bất kỳ điều gì trong số chúng, và sẽ không tái phạm, bạn sám hối với sự đau đớn hối hận mãnh liệt, chân thành.
4) Nhánh tùy hỷ
Điều quan trọng là tùy hỷ từ trái tim với thiện nghiệp – dù lớn, trung bình hay nhỏ – mà chúng sinh khác đạt được, bất kể họ là ai. Từ đó, có lợi lạc của việc chính bạn cũng được công đức giống như họ và sự đố kỵ trong bạn sẽ suy giảm. Vì thế, bạn chân thành hoan hỷ, hay thích thú, mọi thiện nghiệp, vốn đã được tích lũy, đang được tích lũy và sẽ được tích lũy bởi chúng sinh bình phàm và những vị cao hơn trong khắp ba thời.
5) Nhánh thỉnh chuyển Pháp luân
Đấy là thỉnh cầu hay khẩn cầu Giáo Pháp được thuyết giảng. Bạn dâng những bánh xe vàng, ốc Pháp và v.v. cả thật hay hóa hiện bằng tâm lên chư Phật, chư Bồ Tát, chư đạo sư và chư vị dẫn dắt tâm linh, để chư vị chuyển ba Pháp luân khiến tất cả chúng sinh đạt được những mục tiêu hay thành tựu mong muốn tùy theo căn cơ của họ.
6) Nhánh thỉnh đừng nhập Niết Bàn
Bạn cần cầu nguyện nhất tâm rằng chư Phật, chư Thánh giả, chư đạo sư và các vị dẫn dắt tâm linh, những vị đang xem xét nhập Niết Bàn, bất kể chư vị là ai và ở đâu, vì lợi ích của chúng sinh, cần sống cuộc đời dài lâu, ổn định và không từ bỏ lòng bi cho đến khi luân hồi trống rỗng.
7) Nhánh hồi hướng công đức
Bạn cần hồi hướng bất cứ thiện nghiệp nào bạn đã từng tích lũy và đang tích lũy. Hồi hướng nghĩa là thiện nghiệp được định hướng bằng sự cầu nguyện để nhắm đến một mục tiêu nhất định. Sự hồi hướng Đại thừa là thành tâm cầu nguyện rằng: “Con hồi hướng thiện nghiệp của bản thân và chúng sinh khác đến tất cả chúng sinh, những vị đều đã từng là mẹ con, để họ sẽ thoát khỏi mọi điều khó chịu và khổ đau đặc biệt trong hiện tại, trong đời sau được tái sinh Tịnh độ chẳng hạn cõi Cực Lạc và rốt ráo đạt được quả vị quý báu của Phật quả viên mãn. Cầu mong thiện nghiệp đó trở thành nhân và duyên để đạt được như vậy”. Có sự hồi hướng được tịnh hóa khỏi ba khía cạnh của một hành động, tức là một sự hồi hướng được tiến hành với tri kiến không đối tượng. Nếu bạn không thể làm vậy, thì như trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện có nói:
Giống như Bồ Tát Văn Thù đã đạt
Được sự toàn tri, và như Phổ Hiền,
Mọi công đức này, nay đều hồi hướng
Để rèn luyện và noi gương chư vị.
Như thế, bạn cần nghĩ rằng, “Con đang hồi hướng giống như chư Bồ Tát hồi hướng”. Hồi hướng là một khía cạnh của việc hoàn thành những lời nguyện; vì thế, nếu bạn không dẫn dắt thiện nghiệp của bản thân bằng cầu nguyện, điều đó giống như chẳng biết nó nên đi đến đâu. Khi được dẫn dắt bởi một lời cầu nguyện chứa đựng những nguyện của bạn thì thiện nghiệp sẽ được hướng đến mục tiêu chính yếu đó. Vì thế, bất kể thiện nghiệp nào được tích lũy, bạn cần cầu nguyện rằng, nhờ sức mạnh của nó, trong đời sau, bạn sẽ có được thân của vị thiên hay thân người, sinh về Cực Lạc, rốt ráo đạt toàn tri và v.v.
Như thế, nếu bạn được thiết lập trong sự hồi hướng và cầu nguyện, đấy sẽ là duyên khởi cát tường sâu xa, thứ đem lại lợi lạc cho chính bạn và chúng sinh khác.
Đức Mila Shepa Dorje vĩ đại từng nói:
Thiền gia thiền định trên núi non
Và thí chủ cung cấp các nhu yếu phẩm
Đều có được duyên khởi để đạt Phật quả,
Và tinh túy của duyên khởi đó là hồi hướng.
Theo cách đó, hồi hướng nghĩa là cầu nguyện lặp đi lặp lại rằng tất cả những vị mà bạn có kết nối nghiệp tốt hay xấu sẽ đều đạt đến Phật quả và rằng trong tâm, bạn sẽ không bao giờ từ bỏ tất cả bạn bè, những vị làm lợi hay mong muốn làm lợi cho bạn, mà thay vào đó, bạn cầu nguyện rằng, nhờ nghiệp tốt lành này, họ sẽ đạt đến cấp độ đại lạc.
Phần thứ sáu của Đạo Sư Du Già:
Cầu Nguyện Thiết Tha Đến Đạo Sư Và Guru Rinpoche
Như thế, bạn chín muồi bản thân và chúng sinh khác bằng bảy nhánh trước đạo sư, vị Phật quý báu. Sau đó, với sự chắc chắn rằng đạo sư Kim Cương Trì, thành tựu giả thù thắng Hồ Sinh Kim Cương là hiện thân tổng nhiếp thân, khẩu, ý, phẩm tính và hoạt động của tất cả chư Phật ba thời, rồi với niềm tin bất biến, sâu xa, bạn phải tụng lời cầu nguyện bắt đầu bằng “Đạo sư tôn quý …” và lặp lại Chân ngôn Đạo Sư Thành Tựu, khơi dậy tâm Ngài để nhờ sự cầu khẩn, gia trì sẽ thâm nhập tâm bạn.
Đạo sư, đấng dẫn dắt tâm linh, dành cho bạn lòng từ còn lớn hơn lòng từ của tất cả chư Phật. Nếu bạn không nhận ra điều đó thì bạn sẽ không phát triển được niềm tin phi phàm và lòng sùng mộ với đạo sư.
Kim Cương Trì Patrul, vị mà sự hiểu về toàn bộ truyền thống kinh văn sâu sắc và bao la đã khởi lên từ Ngài như là những chỉ dẫn, từng nói rằng:
Con phải cầu nguyện đến Ngài với những giọt nước mắt sùng mộ, nghĩ rằng, ‘Lòng từ của Ngài vô cùng lớn lao hơn lòng từ của chư Phật. Về những phẩm tính, sự chứng ngộ của Ngài bao la như hư không; trí tuệ và lòng bi của Ngài vô lượng như đại dương; lòng bi của Ngài mạnh mẽ như dòng sông, bản tính của Ngài ổn định như vua của những ngọn núi; Ngài xem mọi chúng sinh bình đẳng, như thể Ngài là cha mẹ họ, và mỗi một phẩm tính của Ngài đều chẳng thể đo lường. Chỉ nhờ cầu nguyện đến Ngài mà mọi thành tựu con mong mỏi sẽ khởi lên không nỗ lực. Ngài là ngọc báu như ý mà con nương tựa, con đặt hết hy vọng ở Ngài và chẳng thực hành gì ngoài Ngài!’.
Với kiểu chắc chắn và niềm tin đó trong tâm, bạn cần thiết tha cầu nguyện đến Guru Rinpoche bất khả phân với đạo sư của bạn.
Phần thứ bảy của Đạo Sư Du Già:
Thọ Nhận Bốn Quán Đỉnh
Điều này tức là đạt được trong bản thân bạn gia trì từ thân, khẩu và ý của đạo sư nhờ khơi dậy tâm Ngài lặp đi lặp lại với niềm tin, lòng sùng mộ, cầu nguyện và trì tụng Chân ngôn.
Hãy quán tưởng rằng từ Om trắng sáng giữa hai lông mày của đạo sư, xuất hiện một tia sáng trắng sáng hòa vào trán bạn, khiến cho tất cả che chướng và những hạt giống của sinh, lão, bệnh và tử, thứ hiện diện trong thân thể và yếu tố kinh mạch của bạn, tự nhiên chấm dứt trong yếu tố tính Không, và bạn đạt được thân kim cương, thứ có bản tính của Hóa thân và có sức mạnh khởi lên thành những hóa hiện và chuyển hóa thân thể như một hiển bày diệu kỳ.
Hãy quán tưởng rằng từ Ah đỏ sáng tại cổ họng đạo sư xuất hiện một tia sáng đỏ chói ngời hòa vào cổ họng bạn, khiến cho tất cả che chướng và thiên hướng, thứ làm suy giảm sức mạnh của khẩu, hiện diện trong khẩu và yếu tố khí của bạn, tự nhiên ngừng lại và bạn thành tựu khẩu kim cương, thứ có bản tính của Báo thân và có sức mạnh xuất hiện là thuyết chân lý, lời nói nói ra một cách độc lập, thứ phụ thuộc lẫn nhau với tính Không, giống như khẩu Phạm Thiên và sự dội vang.
Sau đó, hãy quán tưởng rằng từ Hum tại tim, xuất hiện một Hum xanh dương sậm phóng về phía bạn như sao băng và hòa vào tim bạn, hòa quyện bất khả phân với tâm bạn, khiến cho những bất tịnh hiện diện trong yếu tố A-lại-da và là nền tảng cho mọi thiên hướng và sở tri chướng, bóng tối của tâm, tất cả đều tự nhiên ngừng lại và bạn đạt được trí tuệ kim cương, thứ có bản tính của Tự Tính Thân và bạn đạt được sức mạnh thức tỉnh trong bản thân sự sáng tỏ nội tại vi tế, không che chướng, thứ chính là Tịnh độ rốt ráo của những hóa hiện hư huyễn vĩ đại.
Hãy an trụ trong tính Không của sự bất khả phân giữa tâm bạn với tâm đạo sư, nghỉ ngơi bất khả phân với cam lồ của sự sáng tỏ tự nhiên không đối tượng, tri kiến chân chính trong bản tính của các hiện tượng, không thêm hay bớt.
Cuối thời khóa, khi có sự hóa tán, từ Hum tại tim của đạo sư, Guru Rinpoche, xuất hiện tia sáng đỏ rực, đẹp đẽ và rộn ràng, ngân vang hơi ấm của gia trì bi mẫn, hòa vào tim bạn. Nhờ sức mạnh đó, bạn, đang là Kim Cương Du Già Nữ, tan thành ánh sáng và trở thành một phạm vi màu đỏ, lớn bằng hạt đậu và với một tiếng vỗ tay, nó tan biến bằng cách hòa vào tim đạo sư. Đây là duy trì trong sự giống nhau bất khả phân giữa bản thân bạn và tam mật của đạo sư.
Sau thời khóa, đừng tách rời cam lồ của việc nhìn nhận toàn bộ thế giới và chúng sinh là sự hiển bày của thân, khẩu và ý của đạo sư. Hãy luôn luôn ghi nhớ lòng từ của đạo sư, cúng dường và tôn vinh đạo sư, mà không bao giờ tách rời sức mạnh của lòng sùng mộ.
Chúng ta phải duy trì sự cầu nguyện, thọ bốn quán đỉnh và v.v. như là tinh túy của thực hành hằng ngày.
Trong các quán đỉnh Chân ngôn thừa, có ba quán đỉnh của nền tảng, con đường và kết quả. Quán đỉnh được ban bởi một đạo sư chân chính nhờ duyên khởi của đàn tràng và nghi lễ là quán đỉnh nền tảng.
Thiền định rằng đạo sư trong hình tướng của một vị Tôn ở trên đầu bạn và thọ từ Ngài bốn quán đỉnh là quán đỉnh con đường.
Cuối cùng, quán đỉnh kết quả là nhờ những tia sáng từ thân thực sự của Guru Rinpoche hay vị Tôn nào đó.
Bởi chúng ta ở đây đang đi theo các giai đoạn của con đường, trước tiên, có việc thọ quán đỉnh từ đạo sư. Sau đó, có giai đoạn không sai sót khi bạn thọ bốn quán đỉnh lặp đi lặp lại nhiều lần. Khi tất cả các giai đoạn đã được hoàn thành, không có nghi ngờ gì, bạn dứt khoát sẽ đạt được quán đỉnh của những tia sáng vĩ đại.
Một hành giả Pháp khát khao Kim Cương thừa cần thực sự trân trọng việc thọ nhận quán đỉnh nhờ thiền định về sự bất khả phân của vị Tôn và đạo sư. Vì thế, một chỉ dẫn thực hành cốt yếu là Đạo Sư Du Già cần được tụng như một thực hành sơ khởi cho bất kỳ thời khóa thực hành, nghi lễ cử hành để lợi tha hay v.v.
Kim Cương Trì Patrul nói rằng:
Đặc biệt, một điểm cốt yếu xuất sắc là khi thực hành [giai đoạn] sinh khởi, hoàn thiện và v.v. các thiền định, người ta cần luôn luôn có thực hành Đạo Sư Du Già và thọ quán đỉnh lúc bắt đầu mỗi thời khóa. Như thế, ai đó với lòng sùng mộ và thệ nguyện thanh tịnh, kẻ đã đạt đến giai đoạn này của con đường, không cần dựa vào các thực hành chính yếu, sẽ được thoải mái trên Núi Huy Hoàng ở Chamara, và trong cõi thanh tịnh đó, sẽ nhanh chóng vượt qua con đường của bốn [cấp độ] Trì Minh, nhanh hơn cả sự di chuyển của mặt trời và mặt trăng và đạt đến quả vị Phổ Hiền.
[…][4]
Có những cách khác để giảng dạy các giai đoạn của con đường liên hệ với các con đường của ba cấp độ cá nhân, nhưng chúng đều nằm trọn trong mười một bộ chỉ dẫn này, bắt đầu bằng bốn cách chuyển tâm khỏi luân hồi như là nền tảng của con đường và hoàn mãn bằng những chỉ dẫn Đạo Sư Du Già.
Với con đường thông thường của cá nhân hạ căn, những vị chỉ mong muốn đạt được cấp độ của một sự tồn tại cao hơn trong đời sau, có các giai đoạn của con đường về việc tin vào nhân – quả, làm những thiện hạnh và tránh ác hạnh.
Với con đường thông thường của cá nhân trung căn, trên nền tảng của bốn cách chuyển tâm, có sự từ bỏ bám chấp với những lạc thú của sự tồn tại và tìm cách đạt giải thoát.
Trong thừa thù thắng, tức con đường của cá nhân thượng căn, có sự phát triển Bồ đề tâm và con đường của sự hợp nhất hai tích lũy, và hơn thế nữa, có sự rèn luyện về nhận thức thanh tịnh về thế giới và chúng sinh là Tịnh độ và chư Tôn, điều chính là toàn bộ nền tảng trọn vẹn của Kim Cương thừa.
Mục tiêu rốt ráo của ba Pháp luân là để phát triển sự chứng ngộ thanh tịnh trong chính bạn và để đưa sự chứng ngộ này về bản tính sâu xa của các hiện tượng vào bản thân bạn, về cơ bản, bạn cần hoàn toàn có động cơ từ bỏ luân hồi, đi theo con đường của sự hợp nhất hai tích lũy và đặc biệt, chủ yếu nương tựa gia trì của đạo sư vinh quang. Điều này có thể được biết đến từ những di chúc cuối cùng và chỉ dẫn của chư thành tựu giả vĩ đại trong quá khứ.
Như thế, nhờ thực hành các giai đoạn của thực hành sơ khởi bên ngoài và bên trong, hay sự rèn luyện tâm, bạn chín muồi bản thân mình. Và nhờ thực hành Đạo Sư Du Già, bạn chín muồi và làm khởi lên sự chứng ngộ trong bản thân. Đấy là tinh túy của các thực hành sơ khởi và Đạo Sư Du Già.
Thời nay, trên khắp thế giới, chính niệm và tỉnh giác bị kìm kẹp trong những thứ vật chất. Vì vậy, lúc này, điều đặc biệt cần thiết là có những chỉ dẫn dễ đưa vào thực hành.
Các chỉ dẫn cần dễ hiểu và trình bày những điểm then chốt, chứ không phải là giáo lý rất phức tạp, khó hiểu. Lời Vàng Của Thầy Tôi chứa đựng tất cả chỉ dẫn cốt yếu và tinh túy của các Kinh điển, Mật điển và bộ luận theo cách thức có thể được thực hành hoàn hảo trong một đời người. Nó giống như chìa khóa mở ra cánh cửa dẫn đến chứng ngộ. Nó dứt khoát chứa đựng con đường trọn vẹn và không sai lầm để thu thập các tích lũy và tịnh hóa các che chướng. Thiền định về tính Không là phương pháp cao nhất để tịnh hóa che chướng, nhưng nếu bạn còn chưa rõ ràng về tính Không, thì chỉ được bảo hãy thiền định về tính Không và chỉ được bảo rằng sự không có thực tính là tính Không, sẽ khiến bạn chẳng hiểu được gì. Đấy là lý do hầu hết mọi người được dạy về trì tụng Chân ngôn Mani hay tụng Chân ngôn Trăm Âm. Nếu ai đó được dạy cách thiền định về Kim Cương Tát Đỏa trong lúc tụng Chân ngôn Trăm Âm và nếu chỉ có một chút hiểu biết, người ta nói rằng sẽ có lợi lạc lớn lao từ việc thực sự làm vậy. Giảng dạy rất nhiều, giảng dạy các chủ đề phức tạp, giảng dạy theo cách thức chỉ trích những vị khác, giảng dạy theo cách tán thán bản thân, mà thậm chí chẳng có một chút về cách thực hành thực sự, sẽ chẳng làm lợi những người lười biếng và có nhiều ý nghĩ.
Lời Vàng Của Thầy Tôi dạy rằng bạn phải rèn luyện trong bốn cách chuyển tâm khỏi luân hồi bởi bạn cần phát triển động cơ bỏ lại luân hồi; bạn cần nương tựa một đạo sư tốt bởi bạn cần được dẫn dắt trên con đường đến giải thoát. Bản văn dạy rằng quy y là cánh cửa để bước vào giáo lý. Bản văn dạy rằng phát triển Bồ đề tâm là cánh cửa để bước vào Đại thừa. Bản văn dạy thiền định và trì tụng Chân ngôn Kim Cương Tát Đỏa như là chỉ dẫn thực hành để tịnh hóa bản thân khỏi ác nghiệp. Bản văn dạy cúng dường Mandala như là chỉ dẫn thực hành để thu thập các tích lũy. Bản văn dạy thiền định về Đạo Sư Du Già, điều đem đến sự chứng ngộ đặc biệt. Bản văn dạy về sự rèn luyện trong chuyển di để đạt được sức mạnh của việc tự mình có thể tham gia vào chuyển di thần thức của bản thân. Bản văn này nổi tiếng là có những chỉ dẫn không chỉ dễ hiểu và dễ áp dụng, mà còn có những điểm then chốt đặc biệt, cần thiết để thành công.
Trong vô vàn những giáo lý dài và ngắn khác nhau về các giai đoạn của con đường, Lời Vàng Của Thầy Tôi có một số giáo lý đặc biệt độc đáo.
Kim Cương Tát Đỏa và Mandala, phương pháp thù thắng để tịnh hóa và tích lũy; con đường bí mật sâu xa của gia trì, tức Đạo Sư Du Già; và giáo lý chuyển di, Phật quả không thiền định, là Pháp độc đáo, vô song của cách thức hướng dẫn này.
Chúng ta đều biết rằng trên thế giới này, máu và gạc của nai không rơi xuống trước bạn khi mà tên của bạn vẫn còn trong ống tên và kẻ thù không tự nhiên bay đầu khi thanh kiếm của bạn vẫn còn trong vỏ đựng. Tương tự, chúng ta biết rằng trên con đường Giáo Pháp, sự chứng ngộ không tự khởi lên nếu không được tịnh hóa che chướng và rằng sẽ không có tiến bộ trên các đạo và địa nếu không nghe giáo lý và thiền định.
Vì thế, mặc dù những chỉ dẫn có thể sâu xa và dễ dàng, điều đấy không có nghĩa là bạn không cần phải nỗ lực. Đức Phật nói rằng, “Ta đã chỉ ra cho các con con đường. Bây giờ, giải thoát phụ thuộc vào các con”. Do đó, bất kỳ ai muốn giải thoát và hạnh phúc cần biết rằng bạn phải được tịnh hóa khỏi che chướng, thực hành thiện hạnh và tránh ác hạnh một cách chuẩn xác.
Điều này được kết tập từ một vài câu
Là nền tảng của con đường, thứ là gốc rễ
Của cây như ý nguyện, kết quả của những chỉ dẫn,
Thứ mọc lên hoàn hảo từ mặt đất của tâm.
Tâm tôi như ngựa hoang chẳng có dây cương,
Thiếu những phẩm tính của văn, tư và tu,
Lạc trên những ngọn núi ý nghĩ, vì vậy với kẻ như tôi,
Muốn giải thích luyện tâm đem đến những nụ cười xấu hổ.
Lưỡi tôi chưa thưởng thức vị dinh dưỡng của kinh nghiệm,
Vì thế, nếu đánh giá vị của Pháp sâu xa,
Từ ngữ vô nghĩa, khô khan của tôi sẽ như bắn tên trong tăm tối,
Điều khiến thật khó để giết kẻ thù là sự chấp ngã.
Trong tay chúng ta có các bản văn chỉ dẫn chín muồi và giải thoát,
Thứ đã được biên soạn hoàn hảo bởi chư học giả thành tựu trong quá khứ.
Bạn có thể lựa chọn trong số đó thứ bạn muốn đọc,
Vậy những từ ngữ rỗng tuếch của tôi có thể có mục đích gì?
Chẳng có những thuận duyên để viết bản văn này.
Bởi ai lại muốn một giáo lý vô nghĩa chứ?
Bởi một giáo lý, thứ giống như nước rỗng tuếch khờ dại
Chưa được tịnh hóa, sẽ chẳng thể giải khát.
Vì vậy, tôi cứ trì hoãn đến ngày mai hay ngày kia,
Và như thế, nhiều năm đã trôi qua, thế nhưng
Những vị mong muốn vẫn cứ ngày càng
Thúc giục tôi viết điều gì đó như vậy.
Đặc biệt, các anh chị em Pháp tốt đẹp, cao quý, uyên bác của tôi
Đã thỉnh cầu điều này như một sự kỷ niệm cát tường
Để tôn vinh lễ tốt nghiệp lớp Bát Nhã Ba La Mật năm nay,
Như vương miện chỉ dẫn đặt trên đầu của họ.
Trong thế giới nô đùa trong đại dương lạc thú lớn lao này,
Con cá – tức đời người – nhanh chóng bị mắc vào
Đầu nhọn của móc câu tham lam.
Ngoài chư Thánh, ai khác có thể thấy điều này?
Người phụ nữ đẹp của bận tâm thế tục với từng cái liếc mắt
Khiến thế giới Giáo Pháp rùng mình bần bật.
Chúng ta có thể thấy nó rung lắc như sắt gần nam châm.
Chẳng phải Pháp ở trong tình trạng yếu ớt như vậy hay sao?
Trong những vườn lạc thú của kiến thức oai hùng,
Giờ đây có vườn sen bao la đẹp đẽ giáo lý Đấng Mâu Ni,
Với những cánh hoa nội tại đẹp đẽ, ngập tràn điều tốt
Của nhân – quả và sự khởi lên phụ thuộc.
Cơn mưa mật ong tri kiến khởi lên phụ thuộc này
Được trao như cam lồ chữa lành cho chúng sinh bị nghiệp giày vò,
Những kẻ lang thang trong hoang mạc của sự tồn tại
Tuyệt vọng, kiệt sức và bị giày vò bởi cái nóng.
Tôi đã viết điều này với động cơ hoàn toàn thanh tịnh,
Tuân theo cấu trúc của một bản văn chân chính.
Nhưng tôi thành tâm sám hối những ô nhiễm lỗi lầm
Đến từ việc không suy nghĩ, nghĩ sai, không chắc chắn và v.v.
Tôi hồi hướng thiện nghiệp đến từ việc viết điều này
Là nền tảng cho lợi lạc và hạnh phúc của vô lượng chúng sinh,
Đặc biệt những vị đi theo tôi, được nghiệp và cầu nguyện kết nối,
Nguyện họ đều nhanh chóng thấy diện mạo của Phổ Hiền nguyên sơ.
Các chỉ dẫn vinh quang, bất nhị, sáng tỏ, sâu xa cho tâm
Giống như vua của ngọc báu, đáp ứng mọi nhu cầu trong luân – Niết.
Nguyện chúng đạt được từ đảo trên biển của tâm chính bạn,
Và nguyện chúng mãi mãi xua tan đói nghèo bởi vô minh.
Tôi là ai đó quen viết những từ ngữ của lời rỗng tuếch là từ ngữ rỗng tuếch trên giấy rỗng tuếch. Khi tôi sắp viết những từ ngữ này, sương mù nghi ngờ lan tràn và duy trì trong thời gian dài. Thế giới tâm tôi buốt giá, chẳng được ánh mặt trời chứng ngộ chạm đến; nó tăm tối mịt mờ, chẳng có ánh sáng từ mặt trăng trí tuệ; vì thế, tôi băn khoăn khi nào tôi mới có thể viết điều này và nếu tôi thực sự viết, nó có mục đích gì và chẳng phải tốt hơn với bản thân tôi và mọi người khác là tôi cứ để tay che miệng và giữ im lặng hay sao?
Trong mười năm, rất nhiều, rất nhiều Pháp hữu nam và nữ, những vị chân thành tận tụy thực hành và sống ở nhiều đất nước, đã lặp đi lặp lại việc yêu cầu tôi viết một bản văn chỉ dẫn ngắn gọn cho các thực hành sơ khởi. Năm 2015, tại một tập hội của chư vị uyên bác, tôn quý và tốt lành, các anh chị em Pháp Kim Cương thừa của tôi, những vị có cùng thệ nguyện với tôi – nhầm lẫn cục đất là vàng, đã thỉnh cầu tôi soạn điều này để tôn vinh lễ tốt nghiệp từ khóa học về Bát Nhã Ba La Mật tại Tu viện của tôi.
Tôi có được phước báu đặt gót sen của chư vị tôn quý, chẳng hạn Đức Orgyen Kusum Lingpa – vị cũng được biết đến là Pema Tumdrak Rolpe Dorje, chúa tể của chư vị thành tựu giả; đấng toàn tri thù thắng – Ngài Dalai Lama, đấng quy y Dodrubchen Tubten Trinle Palzangpo; Dorje Chang Ontrul Tenpe Wangchuk[5], Kathok Moktrul Jigme Chokle Namgyal; Khenchen Pema Wang-gi Gyalpo; Lhatrul Orgyen Garwang Nyima và nhiều vị khác, trên đỉnh đầu tôi.
Tôi không chỉ có được mầm cây đời này chín muồi dưới chân chư đạo sư Longchen Nyingtik, mà còn được đặt trên đầu vương miện danh hiệu là vị tái sinh của Đức Do Khyentse và tôi được gọi là Hungkar Dorje.
Để không đối nghịch với sự cát tường là lời thỉnh cầu từ huynh đệ Pháp xuất sắc của tôi, Lama Tsering, vị có lòng sùng mộ chân thành với Giáo Pháp; em trai ruột của tôi – Dorje Trengwa và những vị khác, tôi đã bắt đầu viết điều này lúc mặt trời lặn ngày đầu tiên của tháng Vesak trong năm Mộc Mùi Tây Tạng ở thủ đô của Hoa Kỳ, và tôi đã hoàn thành vào ngày Hai mươi lăm tháng đó, ngày Dakini của giai đoạn trăng khuyết dần, vào ngày cát tường theo chiêm tinh khi là ngày ‘tinh thần’ của tôi trong tuần, khi yếu tố thủy và thổ kết hợp, trên chuyến bay từ thủ đô Bắc Kinh đến đất nước Nga vĩ đại, trên bầu trời xanh dương, giữa những đám mây trắng và tận hưởng hương vị và sự tốt lành của một cốc trà sữa.
Nhờ thiện hạnh này, nguyện tất cả chúng sinh và đặc biệt là những Pháp hữu với động cơ thanh tịnh đã truyền cảm hứng để tôi làm vậy và cung cấp hoàn cảnh cần thiết, đều hiển bày sự chói ngời tự nhiên của Pháp thân tự-biết và nhanh chóng hoàn thiện vẻ đẹp trẻ trung của thân cầu vồng đại chuyển di, và nguyện tôi, trong mọi đời, đều có phước báu tận hưởng lặp đi lặp lại cam lồ của bí mật thừa vĩ đại.
[2] Theo Patrul Rinpoche, trích dẫn này đến từ Ngài Gotsangpa Gonpo Dorje.
[3] Tức Ngài Milarepa.
[4] Tiếp theo trong luận giải là “Phần thứ tư của sự rèn luyện tâm trong các thực hành sơ khởi bên ngoài và bên trong: Con Đường Nhanh Chóng – Sự Rèn Luyện Trong Chuyển Di Thần Thức”.
[5] Tức Ngài Khangsar Tenpe Wangchuk (1938-2014).
Trích dịch từ cuốn sách The Melodious Sound of the Laughter of the Vidyadharas of the Three Lineages – A Brief Explanation of the Preliminaries for the Dzogchen Longchen Nyingtig [Tiếng Cười Du Dương Của Chư Trì Minh Ba Truyền Thừa – Một Giải Thích Ngắn Gọn Về Các Thực Hành Sơ Khởi Đại Viên Mãn Longchen Nyingtik] của Hungkar Dorje Rinpoche, Peter Alan Roberts chuyển dịch Tạng-Anh.
Hungkar Dorje Rinpoche
Việt dịch: Pema Jyana