Chết, Thể Dạng Trung Gian, Tái Sinh – Phần 1 |

Chết, Thể Dạng Trung Gian, Tái Sinh – Phần 1

Kim cương thừa Thực hành

Dagpo Rimpoché là một gương mặt lớn của Phật giáo Tây tạng tại Âu châu. Khi vừa mới một tuổi Dagpo Rimpoché đã được Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIII xác nhận là vị hóa thân (tulku) của Ngài Mã-nhĩ-ba (Marpa, 1012-1097) một vị Đại sư của Tây tạng và là thầy của Đại sư Mật-lặc Nhật-ba (Milarepa, 1052-1135). Dagpo Rimpoché sinh năm 1932, vào chùa từ lúc sáu tuổi, tu học tại các tu viện đại học danh tiếng nhất ở Tây tạng. Ngài rời Tây Tạng vượt sang Ấn vào năm 1959 và sau đó lưu trú tại Pháp từ năm 1960.

Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một tài liệu ghi chép lại các buổi thuyết trình của ông trong hai ngày 29 và 30 tháng 6 năm 1985 tại ngôi chùa của Tổng hội Phật giáo Pháp trong công viên Vincennes tại Paris.

Chúng ta có hai ngày cùng nhau học hỏi, vậy mỗi người trong chúng ta hãy cố gắng mang lại cho mình một chút lợi ích nào đó. Muốn thế chúng ta cần có một động cơ thúc đẩy.

Vậy làm thế nào để tạo cho mình một động cơ cần thiết?

Trước hết phải nhìn vào cơ sở hỗ trợ cho sự sống này của chính mình để hiểu rằng muốn được mang thân xác con người phải hội đủ thật nhiều điều kiện quý hiếm. Thật sự ra điều này ai cũng biết, thế nhưng không mấy ai nghĩ đến hoặc chỉ ý thức một cách mơ hồ. Vậy trước hết chúng ta phải ý thức được tầm quan trọng đó.

Nếu không làm gì thì ta cũng sẽ chẳng gặt hái được gì cả. Nếu biết sử dụng “cơ sở” sẵn có này [tức sự hiện hữu dưới thể dạng con người] để cố gắng một cách thiết thực thì sẽ mang lại cho mình nhiều điều lợi ích: sự sống của mình trở nên tốt đẹp hơn, sự tái sinh trong tương lai cũng thuận lợi hơn, và biết đâu có thể đạt được cả sự Giải thoát toàn vẹn.

Những bằng chứng nào cho thấy chắc chắn là ta sẽ đủ khả năng thành công? Cứ nhìn vào những gì ta đã thực hiện được trước đây. Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều từng học hỏi hay làm một việc nào đó và đạt được kết quả. Nếu đã từng gặt hái được kết quả, hôm nay sự cố gắng của ta nhất định cũng sẽ mang lại kết quả, hơn thế nữa kết quả mà chúng ta sắp gặt hái sẽ lợi ích hơn nhiều so với những gì trước kia.

Chúng ta đang có cơ duyên gặt hái được những lợi ích thiết thực, vì thế cũng nên cố gắng với tất cả khả năng sẵn có của mình. Biết đâu nhờ vào các khả năng đó ta có thể đạt được thể dạng của một vị Phật ngay trong kiếp sống này, nếu không ít ra ta cũng khám phá được con đường quán thấy của Đại thừa – có nghĩa là con đường giải thoát khỏi cõi ta-bà, không còn phải quay lại với những chu kỳ hiện hữu bất tận, ngoài sự mong muốn của mình. Nếu tệ hơn thế nữa trong trường hợp không đủ sức tìm được con đường quán thấy của Đại thừa đi nữa, tối thiểu ta cũng thực hiện được một tâm thức tỉnh ngộ trong kiếp sống này. Nếu không cố gắng làm được một cái gì đó thì cuộc sống dưới thể dạng con người của chúng ta quả thật là vô vị.

Vì thế chúng ta cần phải cố gắng, vì nếu cứ để bị trói buộc trong cõi ta-bà, chẳng những không bao giờ ta tìm thấy hạnh phúc mà lúc nào cũng phải đương đầu với khổ đau. Trong cõi ta-bà, luôn luôn ta phải đối đầu với mọi thứ khó khăn và buồn phiền, nhất là khổ đau vì phải chết, phải sinh, bị bệnh tật và già nua.

Vì thế nên sử dụng ngay các khả năng hiện có để thực hiện mục đích vạch ra trên đây. Tại sao phải bắt tay ngay? Bởi vì không thể nào biết chắc ta sẽ còn giữ được các điều kiện thuận lợi như hiện nay. Trong tương lai nếu muốn hội đủ các điều kiện thuận lợi mà hiện ta đang có quả thật là một chuyện vô cùng bấp bênh.

Vì thế không nên nghĩ rằng kiếp người của ta còn dài mà tha hồ làm những gì muốn để khất lại việc tu tập thêm vài năm nữa. Đấy là một cách tính toán kém thận trọng, ta không thể biết trước những gì sẽ xảy ra, biết đâu ta sẽ chết trước ngày dự trù sẽ tu tập. Thật thế tu tập là việc cấp bách, không nên chần chờ.

Vậy tu tập là thế nào? Đấy là cách biến cải hành vi của mình. Sự biến cải ấy gồm ba khía cạnh tu tập:

– tu tập dựa vào thân xác

– tu tập dựa vào ngôn từ

– tu tập dựa vào sự sinh hoạt tâm linh

Ba khía cạnh tu tập này nhất thiết phải mang lại một ý nghĩa hay một phẩm tính cao cả nào đó.

Vì thế tu tập không phải chỉ nhắm vào lợi ích của riêng mình mà đúng hơn phải hướng vào tất cả chúng sinh. Một người Phật giáo phải hiểu rằng việc tu tập giúp mình trở thành một vị Phật để đủ khả năng mang lại sự an lành cho tất cả chúng sinh.

Những người không theo Phật giáo cũng nên hiểu rằng muốn giúp đỡ tất cả mọi sinh linh loại bỏ khổ đau và đạt được hạnh phúc đương nhiên phải cần đến một số khả năng nào đó, vì thế phải cải thiện nội tâm mình để khám phá ra những khả năng ấy.

* * * *

Đến đây chúng ta hãy đi thẳng vào chủ đề được nêu lên, đấy là cái chết, thể dạng trung gian và sự đầu thai.

Tại sao lại đề cập đến ba thể dạng trên đây? Nếu không tin có đầu thai, đương nhiên chủ đề trên đây hóa thành vô nghĩa, vì thế muốn tiếp tục cuộc bàn thảo ít ra chúng ta cũng phải chấp nhận trong cuộc sống vào một lúc nào đó cái chết xảy đến, và một nơi nào đó sự sinh xảy ra, những gì xảy ra giữa hai sự kiện đó ta cứ tạm gọi là một giai đoạn trung gian. Đứng trước các sự kiện trên đây tất nhiên ta phải tỏ ra một thái độ, phải phản ứng như thế nào cho thích hợp. Đấy là lý do giải thích tại sao ta phải tu tập.

Muốn phản ứng thích nghi, hành động đúng lúc và tạo cho mình một thái độ phù hợp trước các hoàn cảnh ấy tất nhiên phải hiểu cái chết xảy ra như thế nào, thể dạng trung gian và sự sinh là gì.

Đấy là lý do giải thích tại sao chủ đề trên đây đã được chọn lựa. Lý do thứ hai là Đức Đạt-lai Lạt-ma sắp thuyết trình và làm lễ thụ pháp tại Thụy sĩ cho những ai muốn tu tập Phật giáo Tan-tra, trong số những người tham dự gồm phần lớn quý vị đang ngồi đây. Những gì tôi trình bày hôm nay là để chuẩn bị cho quý vị theo dõi các buổi thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma được dễ dàng hơn và mang lại nhiều kết quả hơn. Dù rằng chủ đề thảo luận liên quan đến Phật giáo Tan-tra thế nhưng tôi không đi sâu vào chi tiết trên một vài khía cạnh nào đó ; trên nguyên tắc một số các chi tiết này chỉ đem ra giảng dạy cho những người có căn bản và đã được thụ pháp. Tuy nhiên tôi vẫn cố gắng trình bày, được đến đâu hay đến đấy, bởi vì Tan-tra không có gì là bí mật cả, tôi trình bày vì muốn chuẩn bị tối đa cho quý vị.

Tan-tra gồm có nhiều học phái, những gì tôi sắp trình bày là “Anouttarayogatantra” tức là “Tối thượng du-già Tan-tra”, một cấp bậc Tan-tra đặc thù và cao hơn hết. Một cách tổng quát, cái chết, thể dạng trung gian và sự tái sinh xảy ra ngoài ý muốn đối với các người bình thường, thế nhưng đối với người tu tập Tan-tra thay vì bị bắt buộc họ có thể chuyển các giai đoạn ấy thành con đường tu tập theo ý muốn của mình.

Nếu đủ khả năng người tu tập có thể đạt được thể dạng một vị Phật ngay trong kiếp nhân sinh này. Trong trường hợp không thực hiện được mục đích trên đây trong lúc còn sống, khi cái chết xảy ra vẫn có thể chuyển hóa quá trình diễn tiến của nó trở thành con đường tu tập giúp mình không hóa thành thân xác bardo [thân xác chuyển tiếp chuẩn bị cho sự tái sinh] trong thể dạng trung gian, mà đạt được thể dạng của một vị Phật ngay sau khi cái chết xảy ra. Trong trường hợp biết tu tập Tan-tra như trên đây “cái chết” không còn là cái chết theo định nghĩa thông thường, những biểu hiện của nó đã biến thành con đường tu tập hướng vào thể dạng một vị Phật.

Trong trường hợp không đủ khả năng vượt khỏi giai đoạn trung gian để trở thành thể dạng một vị Phật, ít ra người tu tập Tan-tra cũng có thể hướng quá trình đó vào con đường tu tập giúp mình đạt được thể dạng một vị Phật trong kiếp sống sau. Trong trường hợp này thể dạng trung gian sẽ trở thành một phương tiện tu tập với đầy đủ ý nghĩa của nó và dù phải tái sinh sau đó người tu tập vẫn giữ được sự liên tục trong kiếp sống mới, có nghĩa là sẽ tái sinh trong những điều kiện thuận lợi giúp mình tiếp tục đi theo con đường Tan-tra, và nhờ đó có thể trở thành một vị Phật trong kiếp tái sinh.

Dưới góc nhìn đó tu tập Tan-tra là một cách biến cái chết, thể dạng trung gian và sự tái sinh trở thành con đường tu tập. Thế nhưng trên phương diện thực hành phải được khai tâm và thụ pháp Tan-tra. Vì thế trong vài tuần nữa, một số quý vị đang hiện diện hôm nay sẽ được thụ pháp dưới sự chủ lễ của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại Thụy sĩ. Tuy nhiên, trong khi hành lễ thụ pháp nếu nắm vững được ý nghĩa của các nghi thức, nhất là hiểu tại sao phải thụ pháp và sự thụ pháp sẽ mang lại những sức mạnh và khả năng nào, hiểu được như thế thì việc thu pháp sẽ hiệu quả hơn. Trong khi chờ đợi được Đức Đạt-lai Lạt-ma khai tâm tôi, cố gắng giải thích thêm cho quý vị chính là vì lý do đó.

Trước hết là nghi thức tiếp nhận thụ pháp Tan-tra. Tiếp theo đó là các nghi thức giúp biến cải cái chết, thể dạng bardo tức thể dạng trung gian và sau hết là sự tái sinh. Các phương tiện góp phần vào việc biến cải là kinh sách Tan-tra, một cách chính xác hơn là các phép tu tập về giai đoạn tạo tác [sinh, hình thành] và giai đoạn hoàn thiện [viên mãn, thể dạng của một vị Phật]. Sau khi đã biến cải, kết quả mang lại là ba thể dạng của Phật, tức là Tam thân Phật.

Nếu muốn biến cải cái chết, thể dạng trung gian và sự sinh, trước hết phải hiểu được những thứ ấy là gì. Vì thế chúng ta hãy tìm hiểu về ba giai đoạn ấy, trước hết là giai đoạn thứ nhất tức là cái chết.

Cái Chết

Chúng ta thử tìm hiểu cái chết xem sao. Thật đáng tiếc khi bắt buộc phải nói đến cái chết vì chủ đề này nhất định không phải là một chủ đề mang lại thích thú, thế nhưng phải thực tế: cái chết là chuyện có thực. Nói về cái chết thật khó nghe, nhưng cứ mặc, phải cố gắng vậy.

Muốn thực hiện sự tu tập trên đây – tức biến cái chết, thể dạng trung gian và sự sinh – để đạt được Tam Thân Phật đòi hỏi phải có một cơ sở hỗ trợ tức là sự hiện hữu dưới thể dạng con người.

Thể dạng con người mà chúng ta đang có là một cơ sở tối cần thiết. Muốn thực hiện sự biến cải phải cần đến sáu yếu tố, trong số sáu yếu tố này có bốn yếu tố mà ta thường nghe nói đến: đấy là đất, nước, lửakhí, và hai yếu tố khác là hệ thống kinh mạchcác giọt [sẽ được giải thích bên dưới]. Người ta cho biết là chỉ có các sinh linh sống trong cõi hiện hữu của chúng ta, được cấu tạo bằng sáu yếu tố trên đây mới có thể tu tập để đạt được thể dạng một vị Phật trong một kiếp sống duy nhất. Đấy là thêm một lý do nữa khiến ta ý thức được thể dạng con người thật vô cùng quý giá.

Cái chết là sự tách rời giữa tâm thức và thân xác. Trên nguyên tắc thời điểm khi tâm thức rời khỏi thân xác chỉ định giây phút cái chết xảy ra. Thế nhưng trên thực tế sự rời bỏ đó xảy ra một cách rất tuần tự, vì thế cần phải tìm hiểu quá trình rời bỏ ấy diễn tiến như thế nào trước khi đưa đến cái chết thật sự.

Muốn theo dõi quá trình trên đây, ta phải nắm vững sự cấu tạo của thân xác. Thân xác không phải là một tổng thể thuần nhất mà được kết hợp bằng nhiều thành phần khác nhau, vì thế phải tìm hiểu xem một cá thể thực sự là gì, cái mà ta gọi là “cái tôi” (cái ngã) là gì, cái mà ta thường tự cho là “tôi” thật sự đấy là gì, “ai” được tạo thành bởi thân xác và tâm thức đang hiện hữu này, hoặc “ai” được chỉ định để đại diện cho cơ sở cấu tạo bởi thân xác và tâm thức. Tóm lại một cá thể gồm thật nhiều thành phần khác nhau và rất phức tạp.

Hai mươi lăm thành phần

Tùy theo kinh sách các bảng liệt kê và mô tả có hơi khác nhau, thế nhưng nhằm mục đích giản dị hóa vấn đề chúng ta có thể xem một cá thể gồm có hai mươi lăm thành phần thô thiển.

Trước hết chúng ta liệt kê tổng quát hai mươi lăm thành phần cấu tạo thô thiển, sau đó sẽ tìm hiểu và theo dõi sự tan biến tuần tự của chúng cho đến khi xảy ra cái chết, có nghĩa là quan sát tiềm năng của chúng tan biến như thế nào.

  1. a) Năm thể dạng thô thiển đầu tiên hay Ngũ uẩn

Có lẽ tất cả quý vị đều hiểu ngũ uẩn là gì, thế nhưng cũng xin một vị trong cử tọa vui lòng nhắc lại. Vị nào có tiếng nói thật to càng tốt, giúp mọi người nghe thấy… Tại Pháp ít khi tôi mời được người tham gia khi thuyết giảng, thế nhưng tại nhiều quốc gia khác như nước Ý chẳng hạn, tôi vẫn thường kêu gọi cử tọa tham gia, họ rất tích cực, một số vị kể ra vanh vách các bảng liệt kê chi tiết nêu lên trong giáo lý của Đức Phật. Tôi thường sử dụng phương pháp đối thoại khi thuyết giảng: tôi đưa ra câu hỏi, cử tọa trả lời. Tôi nghĩ rằng phương pháp ấy rất tích cực và linh động.

Vậy năm thứ cấu hợp là gì?

* Cấu hợp hình tướng,

 * Cấu hợp giác cảm,

 * Cấu hợp của sự nhận biết,

 * Cấu hợp của sự tạo tác duy ý [còn gọi là “tác ý” hay “tác trí”],

 * Cấu hợp tri thức (consciousness).

– Cấu hợp hình tướng:

Nên ghi nhớ là cấu hợp hình tướng không phải chỉ gồm những gì thuộc hình tướng mà còn còn bao gồm âm thanh, mùi, vị và giác cảm. Tuy nhiên phải phân biệt rõ rệt, âm thanh [giọng nói], mùi [mùi của cơ thể], vị [cảm giác ở lưỡi], giác cảm [trên da thịt]… là những gì thuộc vào thành phần tạo ra cá thể, các thứ ấy khác với những gì như mùi, vị, sự va chạm… phát xuất từ nguồn gốc thuộc môi trường bên ngoài.

– Cấu hợp giác cảm:

Quá dễ không cần giải thích thêm.

– Cấu hợp của sự nhận biết:

Cấu hợp này phức tạp hơn. Nên nhớ yếu tố tâm thần của sự “nhận biết” là yếu tố giúp tri thức khi tiếp xúc với đối tượng có thể nắm bắt [nhận ra] được các đặc tính của đối tượng ấy. Vị nào từng nghiên cứu về tâm thức và các loại yếu tố tâm thần sẽ hiểu dễ dàng thế nào là một yếu tố tâm thần đối với sự nhận biết [sự diễn đạt bị chi phối bởi tác động của nghiệp]. Đối với các vị khác có lẽ hơi khó.

– Cấu hợp của sự tạo tác duy ý [tác ý]:

Gồm hai thể loại thành phần khác nhau: một thể loại mang bản chất tâm thần, một thể loại không mang bản chất tâm thần. Đối với thể loại thứ nhất có thể nêu lên thí dụ của nghiệp tức là hành động “duy ý” [cố tình – volition] giúp tri thức hướng vào đối tượng. Đấy là thành phần năng động của tâm thức (esprit- spirit). Đối với thể loại không mang bản chất tâm thần có thể kể ra sự sống, đấy là thí dụ điển hình và dễ hiểu nhất.

– Cấu hợp tri thức:

Khá dễ hiểu. Cấu hợp này gồm sáu thể dạng: đấy là sáu loại tri thức, từ tri thức thị giác đến tri thức tâm thần [năm tri thức của ngũ giác và một tri thức thuộc tâm thức].

Chúng ta tiếp tục liệt kê các thành phần khác trong số hai mươi lăm thành phần:

  1. b) Sau năm thứ cấu hợp trên đây, ta có bốn thành phần là: đất, nước, lửa và khí. “Đất” tượng trưng cho các thành phần cứng, “lửa” tượng trưng cho hơi ấm, vân vân…
  2. c) Sáu căn bản hiểu biết, gồm các căn bản hiểu biết dựa vào ngũ giác: từ thị giác đến tâm thần [căn bản hiểu biết của ngũ giác và của tâm thức]
  3. d) Năm đối tượng: hình tướng, âm thanh, mùi, vị và các cảm nhận do xúc giác.
  4. e) Năm “trí tuệ tiên khởi căn bản”: có nghĩa là năm thể loại nhận thức. Có nhiều thứ nhận thức khác nhau, chẳng hạn như loại nhận thức dựa vào đó các đối tượng hiển hiện ra, nhận thức này gọi là “Trí tuệ như tấm gương lớn” [“Đại viên kính trí”]. [theo Tan-tra thừa trí tuệ gồm năm thể loại khác nhau, thế nhưng Dagpo Rimpoché không trình bày chi tiết vì rất phức tạp. Ngoài ra cũng cần chú ý là “trí tuệ tiên khởi căn bản” là trí tuệ tự nhiên của người bình thường, không phải là Trí tuệ phát sinh do sự tu tập].

Tóm lại năm thành phần thô thiển đầu tiên trong số hai mươi lăm thành phần thô thiển là năm cấu hợp [ngũ uẩn]. Hai mươi lăm thành phần thô thiển được phân bố thành năm nhóm, mỗi nhóm dẫn đầu bằng một trong số năm cấu hợp. Thí dụ, nhóm thứ nhất gồm có các hiện tượng liên quan với hình tướng.

Người ta trình bày các hiện tượng tan biến bằng cách diễn đạt như sau “các hiện tượng liên quan đến cấu hợp hình tướng sắp bị tan biến”, có nghĩa là các thành phần ấy mất dần khả năng và sức mạnh của chúng.

Hiện tượng tan biến diễn tiến như thế nào? Trước hết nhóm cấu hợp hình tướng gồm các thành phần thô thiển tan biến, tiếp theo là các nhóm khác tuần tự thay nhau tan biến. Thế nhưng khi mỗi nhóm tan biến, toàn thể các thành phần tạo ra nhóm đó đồng loạt tan biến cùng một lúc. Mỗi nhóm trong khi tan biến sẽ làm phát sinh nhiều dấu hiệu bên ngoài và một dấu hiệu bên trong.

Xin nhắc lại trước hết cần nhớ có tất cả hai mươi lăm thành phần, sau đó là sự tan biến của chúng tuần tự theo từng nhóm, tất cả các thành phần cấu hợp thay nhau mất dần khả năng và sức mạnh của chúng. Nếu nắm vững các diễn biến trên đây từ đầu, sau này sẽ dễ theo dõi hơn.

Phần thuyết giảng sau đây sẽ được trình bày như thế nào? Tôi sẽ giải thích chi tiết từng giai đoạn, sau đó chúng ta tập thiền định, thế nhưng vì đây là lần đầu quý vị tập thiền định nên chưa thể nhớ hết các diễn biến nhất là các dấu hiệu bên ngoài và bên trong sẽ xảy ra, tuy nhiên quý vị đừng ngại, trước khi thiền định tôi sẽ nhắc lại các điểm quan trọng.

1- Sự Tan biến thứ nhất: còn gọi là sự tan biến của nhóm cấu hợp hình tướng, tức là sự tan biến của các thành phần liên quan đến hình tướng. Biến cố này gồm có năm thể dạng tan biến sau đây:

 – Cấu hợp hình tướng,

 – “Trí tuệ tiên khởi căn bản như tấm gương sáng” [“Đại viên kính trí (ardasa-jnana)]

 – Thành phần “đất”,

 – Giác cảm thị giác,

 – Các hình tướng thuộc vào sự tiếp nối liên tục của một cá thể.

 Tất cả năm thể dạng cùng theo nhau tan biến một lúc.

Như tôi vừa trình bày, cách phát biểu sẽ như sau: “cấu hợp hình tướng sắp bị tan biến”. Và cũng xin nhắc lại khi tôi nói đến sự kiện tan biến hay tan mất đấy có nghĩa là các thành phần mất đi các khả năng của chúng [thí dụ thành phần đất tan biến có nghĩa là khả năng của các thành phần cứng bị tan biến, nhưng thân xác vẫn còn đấy]. Thế nhưng những khả năng ấy là gì?

Thí dụ trong lúc này hình tướng hay thân xác của ta đang bảo tồn được khả năng chuyển tải (chống đỡ) tâm thức hay tri thức. Khi cấu hợp hình tướng tan biến, khả năng chuyển tải của nó sẽ bị mất đi, hình tướng hay thân xác không còn chuyển tải được tâm thức nữa.

Vậy khi phát biểu cấu hợp hình tướng tan biến, tức có nghĩa đấy là một hiện tượng nhất thiết liên quan đến quá trình đưa đến cái chết. Dấu hiệu phát sinh là tứ chi teo ốm, cơ thể trở nên yếu ớt, sức lực kém hẳn đi. Thế nhưng không nên lầm lẫn các dấu hiệu này như những diễn biến bình thường của sự già nua.

Khi quan sát người hấp hối nếu ta thấy tứ chi của người này teo ốm đi, sức lực giảm xuống, tức đấy là các dấu hiệu đó cho thấy cấu hợp hình tướng không còn hội đủ khả năng chuyển tải tâm thức như trước nữa.

Đồng thời “trí tuệ tương tự như tấm gương” tức “trí tuệ tiên khởi căn bản” cũng tan biến theo. Vậy “trí tuệ giống như tấm gương” là gì? Có nghĩa là trí tuệ phản chiếu [ghi nhận] hình ảnh của bất cứ một vật thể nào, tương tự như một tấm gương phản chiếu các vật thể đặt đối diện với nó. Cũng tương tự như thế, các đối tượng đủ loại có thể hiển hiện lên trong tâm thức một cách rõ rệt và tự động qua sự nhận thức. Đấy là các loại nhận thức mà chúng ta đang có trong lúc này, nhờ các sự nhận thức đó nhiều đối tượng khác nhau có thể hiển hiện lên trong tâm thức ta một cách đồng loạt.

Khi “trí tuệ như tấm gương” hay “trí tuệ tiên khởi căn bản” tan biến tức có nghĩa là mất dần khả năng nhận thức [người hấp hối không còn nhận biết được gì nữa], các dấu hiệu nào sẽ xảy ra? Đó là thị giác bị suy yếu, người hấp hối không còn nhận biết được các vật thể chung quanh. Tuy nhiên không có nghĩa là khả năng thị giác hoàn toàn mất hết, đúng hơn chỉ bị suy giảm, hình ảnh nhìn thấy rất lờ mờ và thấp thoáng, chỉ nhìn thấy các vật thể bằng đường viền chung quanh, không còn phân biệt được vật thể này với vật thể khác, màu sắc cũng nhoè đi không còn nhận biết được một vật thể có màu đen hay màu trắng so, không còn phân biệt được màu của vật thể này có khác với màu của một một vật thể khác đặt bên cạnh hay không, v.v.

Đồng thời với các dấu hiệu đang xảy ra như trên đây, thành phần “đất” bắt đầu tan biến. Dấu hiệu xác nhận sự tan biến của thành phần “đất” đang xảy ra là tứ chi uể oải, mềm nhũn. Chẳng hạn chúng ta có thể cầm nắm dễ dàng các vật thể, thế nhưng tay của người hấp hối trong giai đoạn này không còn giữ được chức năng đó, hai tay không còn nắm lại được.

Đồng thời cơ thể khô lại, người hấp hối cảm thấy miệng khô và khát nước, toàn thân như lún sâu xuống đất. Người hấp hối thường nhờ người thân chung quanh nâng họ đặt lên gối, thế nhưng họ vẫn cảm thấy như đang bị lún xuống giường, lọt xuống đất. Các dấu hiệu trên đây chứng tỏ thành phần “đất” đang mất hết khả năng chống đỡ tri thức.

Đồng thời khả năng thị giác tan biến. Trước đó thị giác vẫn còn giữ được khả năng nhận biết và còn chuyển tải được tri thức thị giác, thế nhưng trong giai đoạn này đang tan biến hết. Thị giác mất khả năng, người hấp hối không còn mở hay nhắm mắt được nữa.

Sau cùng các hình tướng thuộc sự tiếp nối liên tục của cá thể cũng đồng lượt tan biến. Dấu hiệu đặc biệt của sự tan biến này là người hấp hối mất hết vẻ tinh anh, da dẻ giống như xác chết.

Tôi vừa cho biết các hình tướng thuộc dòng tiếp nối liên tục của cá thể tan biến. Vậy vị trí của chúng so với tổng thể hai mươi lăm thành phần thô thiển như thế nào? Tôi đã trình bày về năm đối tượng là hình tướng, âm thanh, v.v…., tất cả những thứ ấy đều thuộc vào nhóm thứ nhất [cấu hợp hình tướng].

Những gì tôi vừa mô tả là các dấu hiệu bên ngoài. Khi các dấu hiệu này xảy ra trong giai đoạn tan biến thứ nhất tức sự tan biến của cấu hợp hình tướng, sẽ phát sinh đồng lúc một dấu hiệu bên trong: người hấp hối có cảm giác như trông thấy một ảo ảnh. Đấy không phải là một cảm nhận của giác quan thị giác mà đúng hơn là một cảm nhận tâm thần. Sự cảm nhận này của người hấp hối tương tự như ảo ảnh của nước mà chúng ta nhìn thấy trên mặt cát hay mặt đường nhựa khi tiết trời nóng bức. Vì sức nóng và ánh nắng mặt trời khiến ta có cảm giác nhìn thấy từ xa loang loáng hình như có nước trên mặt đường, thực ra không đúng. Chính đấy là loại ảo giác mà người hấp hối cảm nhận được trong giai đoạn tan biến thứ nhất vừa mô tả trên đây.

Tôi vừa mô tả các dấu bên ngoài và bên trong. Tại sao gọi là các dấu hiệu bên ngoài? Bởi vì đấy là các dấu hiệu mà người hấp hối và cả những người chung quanh đều nhận ra được. Đối với dấu hiệu bên trong chỉ có người hấp hối mới nhận thấy được.

Đối với một người tu tập Đạo Pháp khi các dấu hiệu bên ngoài phát hiện họ nhận ra ngay và tự nhủ: “ảo ảnh đang xuất hiện, đấy là dấu hiệu bên trong đầu tiên”. Người không tập luyện Tan-tra chỉ nhận thấy như thế nhưng đành chịu, không biết phải làm gì. Ngược lại, người tu tập Tan-tra khi nhận biết được mình đang trong giai đoạn này có thể biến ảo ảnh trở thành sự quán thấy tánh không. Điều đó có nghĩa là người tu tập cảm nhận được ảo ảnh và hiểu rằng đấy chỉ là một thứ gì đó không tự nó hiện hữu, nói cách khác là nó không hiện hữu từ bản chất. Đấy là phép thiền định về tánh không.

Tóm lại trong giai đoạn tan biến của cấu hợp hình tướng trên đây, xảy ra năm dấu hiệu bên ngoài và một dấu hiệu bên trong.

2- Sự tan biến thứ hai: tức là sự tan biến liên quan đến các cấu hợp giác cảm. Tương tự như sự tan biến của các thành phần của cấu hợp hình tướng, năm thể dạng tan biến của cấu hợp giác cảm cũng xảy ra đồng loạt:

 – Cấu hợp xúc giác,

 – “Trí tuệ bình đẳng tiên khởi căn bản” [“Bình đẳng tính trí” (Samata-jnana) căn bản]

 -Thành phần “nước”,

 – Giác cảm thính giác,

 – Âm thanh thuộc thành phần của sự tiếp nối liên tục của cá thể, [âm thanh bên trong không phải âm thanh phát ra từ môi trường bên ngoài].

Song hành với sự tan biến đồng loạt đó xảy ra năm dấu hiệu bên ngoài và một dấu hiệu bên trong.

Trước hết cấu hợp xúc giác tan biến, các giác cảm phát sinh từ xúc giác không còn giữ được hiệu năng ; nói cách khác người hấp hối không còn nhận biết được những thứ cảm giác trên thân xác như dễ chịu, trung hòa hay khó chịu. Đó là hậu quả do sự tan biến của cấu hợp giác cảm khiến người hấp hối không còn cảm nhận được ba thứ giác cảm trên đây (thích thú, trung hòa và khó chịu).

Đồng thời “trí tuệ bình đẳng tiên khởi căn bản” cũng tan biến. Dấu hiệu bên ngoài của sự tan biến này là gì? Cũng cần nhắc lại có một thể loại nhận thức giúp nhớ lại [nhận biết được] các giác cảm thích thú, khó chịu và trung hòa đi kèm các thứ nhận thức tâm thần khác khi xảy ra. Chính khả năng nhận thức [nhớ lại hay nhận biết] ấy bị tan biến. Sự tan biến của “trí tuệ bình đẳng tiên khởi căn bản” khiến người hấp hối không còn cảm nhận được các giác cảm tâm thần như thích thú, khó chịu hay trung hòa. Tôi cũng xin nhắc lại đây là giai đoạn các giác cảm thô thiển đang mất hết khả năng [tức đã tan biến].

Tiếp theo đó thành phần “nước” tan biến. Dấu hiệu bên ngoài là sự hóa khô của tất cả các chất lỏng: máu, nước tiểu, nước dãi… Miệng và lưỡi bị khô, người hấp hối than khát nước, nhiều vết thâm đen hiện ra ở răng. Trong khi thành phần “nước” mất hết khả năng, phát hiện dấu hiệu bên ngoài là môi trên cong ngược lên. Người chung quanh có thể nhận ra dấu hiệu này dễ dàng.

Tiếp theo đó giác cảm thính giác tan biến, dấu hiệu bên ngoài là người hấp hối không còn cảm nhận âm thanh được nữa dù là âm thanh phát xuất từ môi trường bên ngoài hay âm thanh nội tâm.

Sau cùng và đồng thời âm thanh thường trực thuộc thành phần của sự tiếp nối liên tục của cá thể cũng tan biến [âm thanh nội tâm]. Trong suốt cuộc sống, thường xuyên có một thứ âm thanh vang lên trong mỗi cá thể. Muốn nhận ra [nghe thấy] âm thanh đó rất dễ chỉ cần bịt chặt hai tai lại sẽ nghe thấy tiếng “ù – ù” vang rền trong đầu. Sự kiện chấm dứt của âm thanh “ù – ù” thường xuyên âm vang suốt trong cuộc sống thường nhật tượng trưng cho một dấu hiệu bên ngoài. Từ thời điểm này người hấp hối hoàn toàn không còn nghe thấy gì nữa. Theo truyền thống Tây tạng, khi có một người sắp qua đời, các người chung quanh giúp người hấp hối bằng cách nói với họ, khuyên nhủ họ, nhắc lại cho họ Đạo Pháp, gợi lại các thành quả tu tập trước đây của họ… Cách giúp đỡ bằng lời nói phải thực thi trước khi xảy ra giai đoạn tan biến trên đây, vì kể từ thời điểm này người hấp hối không còn nghe thấy gì nữa.

Nếu người chung quanh không đủ khả năng khuyên nhủ về giáo lý cũng nên cố gắng niệm kinh Tan-tra [khi người hấp hối còn nghe được]. Cũng cần nhắc thêm chẳng những nên tụng niệm kinh Man-tra cho người sắp chết mà cho cả súc vật hấp hối nữa. Dầu sao cũng cần nhớ nếu tụng niệm hay khuyên nhủ cũng phải thực hiện trước giai đoạn tan biến trên đây vì sau đó người hấp hối không còn khả năng thính giác nữa.

Ngoài các dấu hiệu bên ngoài như vừa mô tả, sau đây là dấu hiệu bên trong: người hấp hối có cảm giác nhìn thấy một làn khói mỏng. Để giúp hình dung cảm giác của người hấp hối ta có thể tưởng tượng hình ảnh một đống củi đang cháy tỏa khói mù mịt trong một gian phòng, khi lửa tắt khói tan dần, sau cùng chỉ còn vương lại một làn khói mỏng trên trần. Hình ảnh làn khói trên trần nhà là dấu hiệu bên trong mà người hấp hối cảm nhận được.

3- Sự tan biến thứ ba: là sự tan biến của các hiện tượng liên quan với cấu hợp của sự nhận biết, gồm năm thể dạng tan biến sau đây:

– Cấu hợp của sự nhận biết,

– “Trí tuệ phán đoán tiên khởi căn bản” [“Diệu quan sát trí” (pratyaveksana-jnana), hay trí tuệ suy xét],

– Thành phần “lửa”,

– Giác cảm nhận biết mùi,

– Các mùi thuộc thành phần tiếp nối liên tục của thân xác, [mùi phát sinh từ thân thể].

Tôi cũng xin nhắc lại khi nói đến sự tan biến của cấu hợp giác cảm và cấu hợp nhận biết đấy có nghĩa là các giác cảm và các sự nhận biết ở thể dạng thô thiển. Thể dạng tinh tế hơn của các yếu tố tâm thần [tức các giác cảm và nhận biết tinh tế] vẫn tồn tại. Cần ghi nhớ sự kiện này vì rất quan trọng. Dấu hiệu bên ngoài thuộc vào giai đoạn này là người hấp hối không còn nhận ra các người thân, không còn nhìn ra cha mẹ mình và những người trước đây từng chung đụng với mình.

Khi “trí tuệ phán đoán” trước đây giúp ta nhớ được tên cha mẹ, bạn hữu, v.v. tan biến, tức có nghĩa là sức mạnh của “trí tuệ phán đoán tiên khởi căn bản” không còn nữa và người hấp hối không còn nhớ được tên các người thân thuộc.

Thành phần “lửa” tan biến: hơi ấm của cơ thể giảm dần, đồng thời phát hiện dấu hiệu bên ngoài: người hấp hối không còn tiêu hoá được nữa, không hấp thụ được các chất cứng và cả các chất lỏng.

Đồng thời khả năng khứu giác tan biến. Dấu hiệu bên ngoài là hơi thở của người hấp hối trở nên hổn hển, không đều và không hít được không khí hữu hiệu. Hơi thở vào rất yếu, ngắn và chậm, trái lại hơi thở ra dài hơn so với hơi thở vào. Vào thời điểm này người hấp hối bắt đầu thở hắt ra phát lên các tiếng thở dốc đặc biệt của người sắp chết.

Sau cùng là sự tan biến của mùi thuộc vào thành phần tiếp nối liên tục của cá thể. Người hấp hối từ thời điểm này không còn cảm nhận được gì nữa, cũng không nhận biết được mùi. Dấu hiệu bên trong là người hấp hối nhìn thấy các đốm lửa bắn tung toé, hay một đám ruồi nhặng đang bay, hay các con đom đóm bay loạn trong tối.

* * * *

Trước khi chấm dứt buổi giảng sáng nay để nghỉ trưa, chúng ta nguyện cầu trường thọ cho Đức Đạt-lai Lạt-ma. Chúng ta không nên quên các buổi giảng này được tổ chức là để chuẩn bị cho buổi lễ thụ pháp do chính Ngài chủ lễ. Những lời nguyện cầu này tượng trưng lòng thành của chúng ta ước mong Đức Đạt-lai Lạt-ma được trường thọ, và mở rộng hơn là ước mong tất cả các vị Thầy khác nữa đang xả thân vì sự tồn vong của Đạo Pháp được trường thọ. Tuy nhiên chúng ta không chỉ nguyện cầu cho các vị Thầy quảng bá Đạo Pháp được trường thọ mà cho tất cả các sinh linh khác trong vũ trụ xứng đáng như những vị Thầy tâm linh đang hy sinh đời mình vì lợi ích của tất cả chúng sinh cũng đều được trường thọ. Hơn nữa chúng ta không phải chỉ nguyện cầu cho những vị xứng đáng được tôn vinh là các vị “Thầy” mà cho tất cả các sinh linh bình dị khác đang âm thầm chăm lo cho sự an vui của tất cả chúng sinh.

Thế nhưng khi tụng niệm quý vị phải nhìn vào giấy, vừa đọc lại vừa suy nghĩ đến lời mình đọc, như thế quả thật khó. Vậy tốt nhất hãy tạo ra trong tâm thức mình những xúc cảm sâu xa và lòng ước mong chân thành trước khi cầm giấy để xướng lên những lời nguyện cầu trên đây. Bài kinh nguyện cầu trường thọ này là một gia tài quý giá, do hai vị đại sư Kyabdjé Ling Rimpoché và Kyabdjé Trijang Rimpoché trước tác.

[Tất cả mọi người đều tụng niệm]

* * * *

Sáng nay chúng ta đã khởi động được niềm hăng say tu tập, thế nhưng sự gián đoạn khi nghỉ trưa có thể khiến chúng ta phân tâm. Vậy nếu muốn tránh sự xao lãng để tập trung tâm thức tìm lại niềm hăng say của buổi sáng, quý vị nào là người Phật giáo hãy nghĩ đến bổn phận mình phải cố gắng tu tập để đạt được thể dạng của một vị Phật hầu phát huy khả năng mang lại an vui cho chúng sinh.

Sáng nay chúng ta đề cập đến nhiều thể loại tan biến, mô tả các quá trình tan biến của các cấu hợp hình tướng, giác cảm và nhận biết. Vậy chúng ta tiếp tục xét đến các thứ tan biến khác xem sao.

4- Tan biến thứ tư: đó là năm thứ tan biến liên quan đến cấu hợp tác ý [hay tác trí, hay tạo tác duy ý]. Sự tan biến này gồm năm thể dạng sau đây:

 – Cấu hợp tác ý,

 – “Trí tuệ tác ý tiên khởi căn bản” [“Thành sở tác trí” (krtyanusthana-jnana) còn gọi là trí tuệ của sự tạo tác duy ý],

 – Thành phần “khí”,

 – Giác cảm vị giác,

 – Vị thuộc thuộc thành phần tiếp nối liên tục của cá thể.

Cấu hợp của sự tạo tác duy ý khởi sự tan biến, tiếng Tây tạng gọi cấu hợp này là doutché gyi poungpo (‘du byed kyi phungpo). Ý nghĩa đại cương của chữ Douché là sự sinh hoạt. Dấu hiệu bên ngoài là thân xác trở nên hoàn toàn bất động, không thể cử động được nữa.

Đồng thời “trí tuệ tác ý tiên khởi căn bản” tan biến, có nghĩa là sự tan biến của khả năng nhận thức giúp ta nhớ lại các hành động còn phải thực thi trong cuộc sống bình thường. Dấu hiệu chứng tỏ khả năng đó bị mất đi là dấu hiệu bên ngoài, người hấp hối mất hết ý niệm về những gì phải làm.

Thành phần “khí” cũng đồng lượt tan biến. Dấu hiệu bên ngoài là hầu hết các “khí” luân chuyển trong cơ thể đều quy tụ lại ở vị trí tim.

Một cách chính xác hơn có mười loại “khí” luân chuyển trong cơ thể, tất cả đều quy tụ lại ở vị trí giữa ngực. Tuy nhiên chúng ta không mô tả chi tiết sự vận hành đó vì khá phức tạp, chỉ cần nêu lên một biến cố bên ngoài khá quan trọng đấy là hơi thở thô thiển hoàn toàn ngưng bặt [người hấp hối hết thở].

Giác cảm về vị tan biến, đây cũng là một dấu hiệu bên ngoài, lưỡi trở nên dầy cộm và co rút lại, cuống lưỡi trở nên tím ngắt.

Sau hết, vị thuộc thành phần tiếp nối liên tục của cá thể cũng tan biến. Dấu hiệu bên ngoài là người hấp hối không còn nhận biết được vị.

Hơn nữa trong khi xảy ra sự tan biến thứ tư, giác cảm liên quan đến thân xác cũng tan biến. Dấu hiệu bên ngoài là người hấp hối mất hết giác cảm trên thân xác, Có vật gì đụng chạm vào thân thể cũng không hay biết, dù sự va chạm gây ra khó chịu hay êm ái cũng không nhận ra.

Dấu hiệu bên trong của giai đoạn tan biến này là gì? Người sắp chết có cảm giác như trông thấy một ngọn lửa của một chiếc đèn dầu lay động và bập bùng trong gió.

Kinh sách dùng cách diễn đạt như sau: một thành phần này “tan biến” (résorption) hay “hòa tan” (dissolution) trong một thành phần khác. Vậy thiết nghĩ cũng cần phải hiểu rõ cách diễn đạt ấy có nghĩa là gì. Thí dụ khi nói thành phần “đất” tan biến vào thành phần “nước” có nghĩa là thành phần “đất” mất đi khả năng chống đỡ [chuyển tải] tâm thức hay tri thức. Thành phần “đất” không còn đảm đang được vai trò chuyển tải của nó nữa, đồng thời với hiện tượng đó người ta có cảm giác như thành phần “nước” trở nên quan trọng hơn, hàm chứa khả năng lớn hơn, giữ một vai trò quan trọng hơn. Thế nhưng thực ra khả năng của thành phần “nước” không hề gia tăng thêm, tác động của nó chỉ trở nên lộ liễu hơn và dễ nhận thấy hơn [sau khi thành phần “đất” đã bị tan biến].

Chúng ta vừa tìm hiểu quá trình tan biến của bốn cấu hợp đầu tiên là hình tướng, giác cảm, sự nhận biết và sự tạo tác duy ý.

5- Sự tan biến thứ năm: đây là sự tan biến liên quan đến cấu hợp tri thức. Sự tan biến này cũng gồm có năm thể dạng như sau:

– Cấu hợp của tri thức,

– “Trí tuệ dharmadatou tiên khởi căn bản”, [còn gọi là “Trí tuệ Như lai tạng” hay “Pháp giới trí” căn bản]

– Thành phần “không gian”,

– Giác cảm tâm thần [sự vận hành của tâm thức],

– Căn bản hiểu biết các pháp [dharma].

Đối với sự tan biến thứ năm tức là sự tan biến của tri thức, chúng ta không sử dụng cách mô tả sự tan biến đối với bốn thứ cấu hợp trên đây mà bắt buộc phải sử dụng đến một cách tiếp cận khác. Thay vì mô tả sự tan biến của năm hiện tượng liên quan đến cấu hợp của tri thức, chúng ta sẽ mô tả sự tan biến của tám mươi sự nhận thức gián tiếp hay tám mươi ý niệm, tức là các thể loại nhận thức thuộc loại thô thiển. Chúng ta có thể kể ra đầy đủ tất cả tám mươi khái niệm nhận thức trên đây thế nhưng sẽ quá dài dòng. Chỉ cần hiểu là trong giai đoạn này một số lớn các khả năng nhận thức thô thiển suy yếu trầm trọng.

Trong khi xảy ra sự tan biến thứ năm, tám mươi ý niệm tan biến trước nhất, và người ta bảo rằng chúng tan biến vào các “thể dạng bên ngoài” (“apparence” – “appearance”) [hiển lộ ra bên ngoài].

Trong giai đoạn đầu của sự tan biến của tám mươi ý niệm thô thiển, dấu hiệu bên trong là: người hấp hối nhìn thấy một ngọn đèn dầu thế nhưng ngọn lửa thật im không bị lay động [nguyên nghĩa và cũng được ghi chép trong kinh sách Tan-tra là ngọn lửa của một chiếc đèn thắp bằng “bơ” lấy ra từ sữa]. Sau đó khi tất cả các khái niệm thô thiển hoàn toàn tan biến, người hấp hối có cảm giác như trông thấy một thứ ánh sáng màu trắng, tương tự như trăng rằm.

Khi tám mươi ý niệm nhận biết – tức các khái niệm thô thiển – tan biến, “khí” thô thiển trước đây luân chuyển trong cơ thể và giữ vai trò chuyển tải cũng kết tụ lại và tan biến dần.

Sau khi tám mươi ý niệm thô thiển tan biến hết các “biểu hiện bên ngoài” sẽ phát lộ.

Thể dạng bên ngoài (apparence) là một sự nhận thức gián tiếp thế nhưng tinh tế hơn tám mươi ý niệm. Trong lúc đó, tức trong khi các “khí” thô thiển kết tụ lại, giọt trắng từ đỉnh đầu theo kinh mạch trung tâm di chuyển xuống phía dưới. Giọt trắng này phát sinh từ tinh dịch của cha, và trong cuộc sống bình thường vị trí của nó ở đỉnh đầu. Đó là một giọt màu trắng thật nhỏ không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Khi giọt trắng rời vị trí đỉnh đầu di chuyển xuống phía dưới sẽ tạo ra cho người hấp hối cảm giác như nhìn thấy màu trắng.

Những gì trình bày trên đây được mô tả trong kinh sách Tan-tra. Sự mô tả đó dựa vào các khái niệm mà chúng ta ít khi được nghe, nhất là đối với khái niệm về các cakra [luân xa] trong cơ thể. Các cakra này chiếm một số vị trí trong hệ kinh mạch của cơ thể. Trong cuộc sống bình thường giọt trắng nằm vị trí bên trên của cakra nơi đỉnh đầu, thế nhưng trong khi xảy ra sự tan biến thứ năm, cakra này sẽ mở ra, nhờ đó giọt trắng thoát ra và di chuyển xuống dưới theo kinh trung tâm và dừng lại phía bên trên của một cakra khác nơi trung tâm của ngực. Trong lúc giọt trắng di chuyển xuống phía dưới, người hấp hối có cảm giác nhìn thấy màu trắng và đấy là một “biểu hiện bên ngoài”.

6- Sự tan biến thứ sáu: tức “thể dạng bên ngoài” tan biến trong sự “tăng trưởng” (accroissement – increase, growth). Xin nhắc lại “thể dạng bên ngoài” là một thể loại nhận thức tuy gián tiếp nhưng tinh tế. Thể dạng bên ngoài tan biến có nghĩa mất hết khiến thể dạng xảy ra sau đó phát lộ rõ rệt hơn.

Dấu hiệu bên trong của sự tan biến này là người hấp hối có cảm giác toàn thể không gian chan hòa một thứ ánh sáng màu đỏ đậm, tương tự như ánh sáng lúc bình minh khi mặt trời chưa hoàn toàn ló dạng, toàn thể bầu trời thật quang đãng, không mây và chan hòa ánh sáng màu đỏ hay đỏ cam.

Tại sao trong giai đoạn này người hấp hối lại có cảm giác nhìn thấy không gian chan hòa màu đỏ thật tươi?

Bởi vì nơi vị trí của rốn có một cakra khác và trong cuộc sống bình thường tại vị trí này có một giọt màu đỏ nằm bên dưới cakra rốn. Giọt đỏ phát sinh từ mẹ mang bản chất “lửa”. Thế nhưng trong giai đoạn tan biến thứ sáu, cakra bí mật và cakra nơi rốn mở ra và giọt đỏ di chuyển ngược lên phía trên và sau cùng dừng lại bên dưới của cakra nơi vị trí ngực. Trong lúc giọt đỏ di chuyển người hấp hối nhìn thấy không gian chan hòa màu đỏ như lửa mô tả.

Người không tu tập, khi hấp hối sẽ trải qua toàn bộ tất cả các quá trình và các sự cảm nhận đã được mô tả thế nhưng tất cả chỉ vỏn vẹn có thế, họ không biết sử dụng các quá trình cũng như các cảm nhận ấy để biến chúng thành con đường tu tập. Trái lại đối với những người được tập luyện từ trước, thông suốt một số phương pháp thiền định, trong khi thể dạng bên ngoài và sự tăng trưởng phát lộ, họ hiểu ngay đấy chỉ là những cảm nhận [nhận thức] hoàn toàn không mang bản thể nội tại, bản chất của chúng không tự tại. Người tu tập dựa vào đấy để thiền định về tánh không.

7- Sự tan biến thứ bảy: sự tăng trưởng của thể dạng bên ngoài tan biến và mất hết khả năng. Xin nhắc lại sự tăng trưởng là một thể loại nhận thức tinh tế. Đồng thời phát hiện một thể dạng khác gọi là “gần thu đạt được” (obtention proche – near achievement). Xin nhắc lại vị trí của hai giọt đỏ và trắng: giọt đỏ nằm bên dưới và giọt trắng nằm bên trên cakra ở ngực, tâm thức cực tinh tế nằm bên trong cakra này. Cũng cần nói thêm là nơi cakra ở vị trí ngực có sáu nút thắt, ba nằm bên trên và ba nằm bên dưới, ở giữa là tâm thức [xin chú ý theo Tan-tra tâm thức nằm ở vị trí ngực, không nằm “trên đầu” như ta thường tưởng] và “khí” cực tinh tế.

Khi thể dạng bên ngoài gia tăng trưởng và mất dần sức mạnh [khả năng hay hiệu lực] của nó, sáu nút thắt sẽ được tháo gỡ giúp cho giọt trắng di chuyển xuống thấp hơn một chút và giọt đỏ di chuyển lên cao hơn một chút, so với vị trí trước đó của chúng. Hai giọt đỏ và trắng ép chặt tâm thức và “khí” cực tinh tế: tương tự như tâm thức và “khí” thật tinh tế bị khóa chặt trong một cái hộp bởi hai giọt trắng và đỏ. Người hấp hối có cảm giác như rơi vào bóng tốicảm thấy như bất tỉnh, hoàn toàn không còn một cảm nhận nào nữa ; đấy là dấu hiệu bên trong của giai đoạn tan biến này.

8- Giai đoạn tan biến thứ tám: tâm thức thuộc thể dạng [sự nhận thức] “gần thu đạt được” tan biến vào “ánh sáng trong suốt của cái chết”. Nói cách khác, thể dạng gần như đạt được [tức một thể loại nhận thức] mất hết khả năng của nó và đồng thời tạo điều kiện cho ánh sáng trong suốt của cái chết hiển lộ.

Trong thời điểm này “khí” và tâm thức thật tinh tế khởi sự tác động. Người hấp hối cảm thấy không gian mở rộng đến vô cực, một thứ không gian hoàn toàn tinh khiết và không màu sắc.

Vào giai đoạn này tức đúng vào khởi điểm phát sinh ánh sáng trong suốt cái chết thật sự xảy ra. Người ta còn gọi đấy là “dharmakaya căn bản” [“pháp thân căn bản”].

Trên nguyên tắc một người bình thường lưu lại trong thể dạng này tức giai đoạn ánh sáng trong suốt trong ba ngày liền. Đối với họ, sự cảm nhận không gian vô tận và tinh khiết trong giai đoạn này chỉ là một sự cảm nhận máy móc [và thụ động]. Ngược lại, một người tu tập có thể chuyển sự quán thấy ấy trở thành một phép thiền định về tánh không.

Đấy là giai đoạn của cái chết thật sự [kết thúc quá trình của cái chết], đối với một người bình thường nó có thể xảy ra rất ngắn hay kéo dài thêm đôi chút, thế nhưng trung bình không hơn ba ngày. Khi cá thể ra khỏi ánh sáng trong suốt của cái chết, giai đoạn này cũng chấm dứt theo. Đồng thời khởi sự giai đoạn trung gian, người chết trở thành một sinh linh trong thể dạng này.

Tóm lại, chúng ta vừa theo dõi các giai đoạn đưa đến cái chết. Muốn lợi dụng các giai đoạn đó để tu tập phải ghi nhớ nằm lòng sự diễn biến tuần tự của các giai đoạn. Ngoài ra cũng phải nhớ lại các dấu hiệu bên ngoài và bên trong. Thế nhưng nếu không thể nhớ hết tất cả các dấu hiệu, tối thiểu cũng phải nhớ được các dấu hiệu bên trong và quá trình diễn tiến tuần tự của các thành phần tan biến, chẳng hạn nhóm gồm các thành phần liên quan với cấu hợp hình tướng tan biến vào nhóm gồm các thành phần liên quan với cấu hợp giác cảm…, tiếp tục như thế cho đến lúc thể dạng “gần thu đạt được” tan biến vào thể dạng ánh sáng trong suốt của cái chết.

Nếu quý vị còn thắc mắc về một điểm nào trong phần vừa trình bày xin cứ nêu lên câu hỏi?

Một thính giả: Có một điểm tôi không hiểu. Sau khi cấu hợp của sự tạo tác duy ý tan biến, cá thể không còn nhớ được các sinh hoạt chưa được thực hiện, thế nhưng trong các giai đoạn về sau, đặc biệt là khi hiển hiện ánh sáng trong suốt của cái chết, lại có thể thiền định về các thể dạng đó bằng cách nhớ lại các lợi ích trong việc tu tập trước đây khi người này còn sống? Bởi vì người này đã quên hết các sinh hoạt sẽ còn phải thực hiện?

Rimpoché: Tai sao sự nhớ lại có thể xảy ra? Bởi vì các sự tan biến đầu tiên liên quan đến các cấp bậc tương đối thô thiển. Khi ta không còn nhớ được những gì còn phải làm chỉ liên quan đến những sinh hoạt thông thường, những sinh hoạt thô thiển.

Một thính giả: Ngài trình bày về các dấu hiệu bên ngoài liên quan đến từng hiện tượng tan biến. Thế nhưng có sự khác biệt nào không giữa những người có cuộc sống đạo hạnh và kém đạo hạnh? Trên thực tế người ta nhận thấy nhiều người chết trong các tình huống khác hẳn nhau: một số người ra đi rất êm ái, một số khác giãy giụa thật thảm thương. Đấy chỉ là những dấu hiệu hoàn toàn vật chất hay liên hệ đến một thể dạng tâm thần?

Rimpoché: Quá trình của cái chết được trình bày là quá trình xảy ra đối với một cái chết “tự nhiên” nếu có thể nói như thế, và người ta gọi đấy là một cái chết “êm ái”. Tuy nhiên cũng có những cái chết xảy ra vô cùng tàn nhẫn mang lại sự khiếp sợ. Thế nhưng các sự sợ sệt hay lo âu xảy ra trước các giai đoạn thuộc thể dạng bên ngoài, thăng tiến, gần thu đạt được và ánh sáng trong suốt của cái chết. Trả lời như thế có đúng với câu hỏi hay chăng?

Một thính giả: Vậy đối với các giai đoạn thuộc các hiện tượng tan biến đầu tiên có gì khác nhau hay không?

Rimpoché: Khi người hấp hối phát lộ sự sợ hãi quá độ, sự khiếp sợ của họ luôn luôn xảy ra trước các giai đoạn trên đây. Người hấp hối có thể trông thấy đủ mọi thứ ảo ảnh khiếp đảm, súc vật kinh khiếp, kẻ thù hung dữ, v.v. Thế nhưng những sự quán thấy ấy luôn luôn xảy ra trước quá trình mà tôi trình bày, quá trình của cái chết lúc nào cũng diễn tiến bình thường. Tại sao? Bởi vì các sự sợ hãi thuộc loại cảm nhận vô cùng thô thiển. Các sự cảm nhận đầu tiên trong quá trình của cái chết như được mô tả dù khá thô thiển thế nhưng vẫn tinh tế hơn sự lo sợ và kinh hoàng [xảy ra trước khi quá trình của cái chết bắt đầu vận hành].

Một thính giả: Đối với một cái chết đột ngột chẳng hạn như tai nạn, những gì sẽ xảy ra?

Rimpoché: Trong trường hợp xảy ra cái chết đột ngột do tai nạn, mọi sự diễn biến ra rất nhanh, các giai đoạn không toàn vẹn.

Một thính giả: Ngài gọi giai đoạn cuối cùng trước khi xảy ra giai đoạn trung gian (bardo) là giai đoạn ánh sáng trong suốt và giai đoạn này kéo dài trong ba ngày. Nếu mai táng trước khi chấm dứt thời hạn này có làm thay đổi gì không? Nếu có thì quan hệ lắm không? Vì lẽ ngày nay người ta thường có xu hướng mai táng ngay sau khi chết. Thông thường người ta chôn cất người quá vãng một hay hai ngày sau khi chết, thay vì giữ lại ba ngày như trước đây.

Rimpoché: Tốt hơn sau khi xảy ra chết căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài nên giữ ba ngày trước khi mai táng nếu có thể. Đối với người bình thường không lợi dụng được các giai đoạn tan biến trong quá trình của cái chết, việc chôn cất sớm có thể không tạo ra sự khác biệt quan trọng nào. Tuy nhiên đây chỉ là ý kiến riêng của tôi mà thôi. Tôi không thấy kinh sách đề cập đến sự kiện này, có lẽ vì lý do trong các nước Phật giáo khi có người qua đời việc tổ chức mai táng không giống như trong các nước Tây phương. Vì thế việc mai táng không đặt thành vấn đề trong các quốc gia Phật giáo.

Một thính giả: Tôi muốn biết trong thể dạng hôn mê (coma), người chết có trải qua các giai đoạn như được mô tả hay không? Chẳng hạn như trường hợp bị nghẽn mạch máu não và sau đó không hề hồi tỉnh?

Rimpoché: Tôi tin là không. Thể dạng hôn mê cũng tương tự như thể dạng bất tỉnh thật sâu. Các thể dạng được mô tả chỉ áp dụng cho cái chết tự nhiên và bình thản. Khi người hấp hối đau đớn mãnh liệt [tai nạn, tự tử, v.v…], các giai đoạn đầu tiên không hẳn sẽ xảy ra rõ ràng và toàn vẹn, thế nhưng người chết bắt buộc phải trải qua các giai đoạn sau cùng (thể dạng bên ngoài, thăng tiến, gần thu đạt được và ánh sáng trong suốt). Muốn cho các thể dạng đầu tiên xảy ra rõ ràng và toàn vẹn cần có một tâm thức minh mẫn.

Một thính giả: Tôi muốn nêu lên ba câu hỏi:

1- Trong trường hợp người hấp hối không mong đợi bất cứ một sự giúp đỡ nào của người khác, vậy ta có thể làm gì được cho người ấy?

2- Trường hợp người hấp hối không phải người Phật giáo, và trong lúc người này còn nghe được và ta niệm các câu kinh Man-tra bên tai, có lợi ích gì không?

3- Sau khi năm cấu hợp đã hoàn toàn tan biến, vậy cái gì sẽ chuyển vào thể dạng trung gian? Cái gì còn lại [sau khi ngũ uẩn đã tan biến]?

Rimpoché: Thật đáng khích lệ, đây là các câu hỏi rất đúng.

1- Khi người hấp hối mất hết khả năng thính giác không còn nghe được nữa, dù có niệm kinh Man-tra vào tai họ cũng chẳng lợi ích gì. Dầu sao đi nữa, người ta vẫn có thể tiếp tục giúp đỡ người chết bằng các cách khác, chẳng hạn như nghi lễ hoặc gom góp tất cả những gì xứng đáng của mình để hồi hướng cho người qua vãng. Nếu ta thực hiện được những hành động đạo hạnh để hồi hướng cho người chết, nhất định sẽ mang lại lợi ích. Thí dụ ta thiền định về tình thương, lòng từ bi, hoặc tánh không và hồi hướng cho người qua đời. Hoặc ta cũng có thể giúp đỡ các người ốm đau, nghèo khó v.v. và hồi hướng những điều xứng đáng ấy cho người quá vãng.

2- Nếu người hấp hối không phải là người Phật giáo, thế nhưng ta cứ niệm kinh Man-tra cho người này khi họ còn nghe được có mang lại lợi ích gì không? Trên nguyên tắc khi các câu Man-tra được xướng lên và có người nghe đều tạo ra một sức mạnh. Thế nhưng phải hết sức thận trọng, nếu người hấp hối thù ghét Phật giáo và không thích kinh Man-tra, nhất định không nên tụng niệm cho người này nghe vì có thể tạo ra sự bực tức cho họ. Nếu biết chắc người hấp hối tuy không phải Phật giáo nhưng không thù ghét Phật giáo lúc đó mới nên niệm kinh Man-tra bên tai họ nếu không gây ra sự khó chịu cho họ. Dầu sao cũng không nên làm nếu không thể đoan chắc là việc tụng niệm không làm họ giận dữ.

3- Câu hỏi thứ ba rất quan trọng: “Sau khi năm cấu hợp đã tan biến sẽ còn lại gì? Cái gì chuyển sang thể dạng trung gian?”. Nên hiểu rằng những gì mà chúng ta thảo luận với nhau được căn cứ vào kinh sách Tan-tra, và cách giải thích của các loại kinh sách này khác hơn so với kinh sách Su-tra [kinh sách của Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa]. Theo kinh sách Tan-tra, một hành động được thực thi dù bằng dưới hình thức nào hoặc qua thân xác, ngôn từ hay tâm thức, tất cả đều có thể phân loại thành ba cấp bậc khác nhau: thô thiển, tinh tế và thật tinh tế. Trong khi xảy ra các sự tan biến đầu tiên, các cấp bậc thô thiển tan biến trước ; các cấp bậc tinh tế vẫn tiếp tục lưu lại và chỉ tuần tự tan biến sau đó qua các giai đoạn thuộc các thể dạng bên ngoài, thăng tiếngần thu đạt được. Tuy nhiên khi xảy ra giai đoạn ánh sáng trong suốt, cấp bậc tinh tế cũng sẽ tan biến, chỉ còn lại cấp bậc vô cùng tinh tế tức tâm thức cực tinh tế [dòng tiếp nối liên tục của tâm thức] là còn tồn tại.

Một thính giả: Ngài giải thích về quá trình của một cái chết bình thường và phép tu tập để đạt được thể dạng một vị Phật. Thế nhưng Tan-tra thừa có đưa ra các kỹ thuật và phương pháp hướng dẫn sự tập luyện hay không? Phải tu tập đến cấp bậc nào mới được tập để cảm nhận trực tiếp các giai đoạn của cái chết?

Rimpoché: Nên hiểu rằng Tan-tra thừa được hình thành dựa trên các phép tu tập thật tích cực. Kinh sách Su-tra không đưa ra các phép tập luyện nào tương tự như thế. Chỉ có Tan-tra chủ trương các phép tập luyện trên đây, người tu tập có thể bắt đầu lắng vào các giai đoạn của cái chết kể từ giai đoạn tạo tác, thế nhưng thường bắt đầu từ giai đoạn hoàn thiện. Muốn biết hai giai đoạn này là gì cần phải được khai tâm bằng lễ thụ pháp.

Một thính giả: Tôi muốn hiểu thêm thế nào là thiền định về tánh không.

Rimpoché: Chủ đề quá lớn không thể giải thích bằng vài câu. Cách nay vài tuần chủ đề “tánh không và thiền định về tánh” không đã được thuyết giảng liên tiếp trong hai ngày cuối tuần. Rất tiếc bạn không có dịp đến nghe. Vậy bạn có câu hỏi nào khác hơn không?

Một thính giả: Nếu quá trình tan biến không tiến hành một cách bình thường, tình trạng các cấu hợp sẽ ra sao? Thí dụ một người nào đó chết vì hỏa hoạn, các cấu hợp của người này sẽ như thế nào?

Rimpoché: Trong trường hợp cái chết xảy ra vì tai nạn có nghĩa là một cái chết thô bạo, quá trình diễn tiến của các giai đoạn xảy ra rất nhanh, một số các giai đoạn bị thu ngắn hay không xảy ra. Đối với các người bình thường [không tu tập] không có gì thay đổi nhiều. Thế nhưng đối với người tu tập cái chết đột ngột khác với cái chết êm dịu. Người tu tập được chuẩn bị cẩn thận để biến cải các giai đoạn trong quá trình của cái chết thành con đường tu tập thiền định, vì thế nếu chết bất tử họ sẽ không đủ thì giờ cần thiết để áp dụng sự tu tập của mình. Trường hợp đó thật tai hại vì họ không thể sử dụng quá trình của cái chết để tập trung tâm thức và thiền định. Đấy là sự khác biệt giữa hai trường hợp tu tập và không tu tập.

Một thính giả: Trong trường hợp cái chết xảy ra đột ngột và người chết vẫn còn ý thức được họ sẽ ở vào tình trạng như thế nào? Thuộc vào giai đoạn nào? Khi cái chết bất tử xảy ra, người chết không trải qua các giai đoạn bình thường và khi họ vẫn còn ý thức được, họ sẽ ở vào giai đoạn nào, thuộc cấp bậc nào và thời điểm nào?

Rimpoché: Trong trường hợp cái chết xảy ra thật thô bạo, chẳng hạn như tai nạn xe cộ, quá trình của cái chết diễn tiến nhanh chóng. Người chết cảm nhận được ánh sáng trong suốt của cái chết nhưng rất ngắn. Sau đó chuyển nhanh sang thể dạng trung gian tức là bardo. Thật ra đối với cái chết bất đắc kỳ tử, cấu hợp hình tướng bị hủy diệt nhanh chóng, cơ sở chống đỡ (chuyển tải) bị mất. Tri thức không thể tồn tại trong tình trạng đó và phải rời khỏi thân xác. Khi nêu lên trường hợp ánh sáng trong suốt của cái chết tồn tại trong ba ngày cũng cần hiểu phải có các điều kiện cần thiết, tức phải có một cơ sở chuyển tải còn tồn tại, có nghĩa là giọt trắng phát sinh từ cha và giọt đỏ phát sinh từ mẹ vẫn còn giữa được các điều kiện cần thiết để tiếp tục khóa chặt tâm thức và “khí” cực tinh tế tại vị trí trung tâm của ngực trong một thời gian tương ứng với giai đoạn ánh sáng trong suốt.

Một thính giả: Khi muốn giúp đỡ người hấp hối, trên nguyên tắc phải tạo ra các ảnh hưởng tác động vào nghiệp của người ấy? Có cách nào khác giúp đỡ trực tiếp hơn hay không? Ta làm được gì trong các trường hợp đó?

Rimpoché: Làm thế nào để giúp một người hấp hối, một chúng sinh sắp chết? Tất cả tùy thuộc vào từng giai đoạn. Trong trường hợp người hấp hối còn ý thức, còn nghe được và hiểu được, ta nên dùng cách khuyên nhủ giúp người hấp hối tự tạo ra cho mình một tâm thức đạo hạnh, chẳng hạn gợi lên cho họ tình thương yêu chúng sinh, lòng từ bi rộng lớn. Đấy là cách giúp họ ra đi với một tâm thức đạo hạnh. Trường hợp người hấp hối đã mất hết khả năng thính giác không còn nghe được nữa, như tôi vừa trình trước đây chúng ta vẫn có thể giúp họ bằng cách tích lũy đạo hạnh và những điều xứng đáng của mình để hồi hướng cho họ. Tác động sẽ rất mạnh nếu ta là người thân cận với họ, càng thân cận hiệu quả mang lại càng lớn, chẳng hạn người hấp hối là cha, mẹ, hay con cái của mình, sự liên hệ mất thiết đó cũng có thể là mối dây buộc chặt người Thầy và người đệ tử. Trong trường hợp người hấp hối và cả ta có chung một số tài vật nào đó, và nếu ta đem các vật sở hữu ấy làm điều thiện, đó sẽ là cách giúp người chết gián tiếp thực thi bố thí. Đấy là một cách giúp đỡ tích cực và hiệu quả cho người quá vãng. Hành động đó sẽ giúp họ tái sinh trong một hoàn cảnh tốt đẹp hơn, hay ít ra cũng tốt hơn kiếp sống này.

Một thính giả: Những gì sẽ xảy ra đối với một người tự tử?

Rimpoché: Cũng tương tự như các trường hợp chết bất đắc kỳ tử khác. Nếu một người nào đó từ trên tháp Effel nhảy xuống đất, cái chết của họ sẽ không khác gì với cái chết của một người bị tai nạn lưu thông. Xin hiểu quá trình của cái chết mà tôi trình bày thuộc các trường hợp thông thường xảy ra một cách tuần tự. Nếu một cái chết xảy ra nhanh chóng, thô bạo [bất đắc kỳ tử], quá trình các giai đoạn không diễn tiến đúng như đã mô tả, do đó không thể lợi dụng các giai đoạn vào viêc tu tập. Kể cả trường hợp cái chết xảy ra chậm cũng phải có một tâm thức minh mẫn để hướng vào việc tu tập. Một người hấp hối mang tâm thức điên rồ không theo dõi được các giai đoạn.

Một thính giả: Tôi muốn biết tại sao lại phải giữ thân xác trong ba ngày khi chỉ còn duy nhất phần tâm thức lưu lại trong thể dạng ánh sáng trong suốt? Trong giai đoạn này các cảm nhận thô thiển đều tan biến, vì thế tôi nghĩ rằng trong giai đoạn này thân xác không còn cần thiết nữa vì không giữ vai trò nào cả?

Rimpoché: Tại sao lại không? Trong giai đoạn phát hiện ánh sáng trong suốt, tâm thức vô cùng tinh tế bị ép chặt bởi giọt trắng và giọt đỏ nơi ngực, vì thế chúng vẫn còn lưu lại trong thân xác, tình trạng này có thể kéo dài trong một khoảng thời gian nào đó. Nếu làm cho quá trình diễn tiến nhanh hơn có nghĩa là bắt tâm thức phải rời bỏ thân xác quá sớm. Hành động này cũng tương tự như việc giết người hấp hối lần thứ hai. Vì thế nên giữ người chết trong ba ngày. Tuy nhiên, không nhất thiết giai đoạn ánh sáng trong suốt kéo dài ba ngày đối với tất cả mọi người. Vì thế cần theo dõi các dấu hiệu để biết khi nào tâm thức cực tinh tế rời khỏi thân xác. Một trong các dấu hiệu là chất lỏng chảy ra từ hai lỗ mũi. Dấu hiệu này chứng tỏ tâm thức chắc chắn đã rời khỏi thân xác, hiện tượng này có thể xảy ra sớm hơn ba ngày rất nhiều.

Còn có câu hỏi nào cần nêu lên hay chăng?

Một thính giả: Quá trình đó có bị thay đổi hay không khi người hấp hối bị mổ để khám nghiệm (autopsie) ngay sau khi chết?

Rimpoché: Còn tùy trường hợp. Quá trình một cái chết bình thường tất nhiên phải trải qua tất cả các giai đoạn như đã được trình bày, thế nhưng trong các nước Tây phương cái “chết” được xác định bằng các tiêu chuẩn như ngưng thở bên ngoài – tức sự ngưng thở thô thiển. Chúng ta đều hiểu rằng sau khi cái chết xảy ra cho thân xác, tâm thức vẫn còn lưu lại trong cơ thể. Giải thích như thế có lẽ cũng đủ trả lời cho câu hỏi.

Một thính giả: Thời hạn ba ngày xảy ra đối với người bình thường. Vậy đối với những người khác thường thì như thế nào?

Rimpoché: Không thể biết đích xác. Đối với những người tu tập Tan-tra thời hạn này có thể kéo dài lâu hay mau tùy từng trường hợp, có thể một tuần, hai tuần hay hơn nữa. Tuy nhiên cũng có thể ngắn hơn [người tu tập cao thâm có thể chủ động được khoảng thời gian này].

Người ta thường thấy những trường hợp xảy với các vị Đại sư, nhất là các Đại sư Tây tạng. Các vị này chết nhưng vẫn lưu lại trong thể dạng ánh sáng trong một thời gian lâu dài, vài người lưu lại hai tuần, vài người khác ba tuần. Khi khoảng thời gian họ còn thiền định không có dấu hiệu thoái hóa nào xảy ra, bởi vì tâm thức họ vẫn còn lưu lại trong thân xác. Trong trường hợp đó thân xác họ vẫn tươi tốt không bốc ra một mùi hôi nào cả. Tuy thế nếu người chết tiếp tục lưu lại trong tình trạng đó quá lâu có thể gây ra phiền toái cho người thân chung quanh. Người ta kể lại nhiều trường hợp người thân (các đệ tử và các người hầu cận) phải cầu xin các vị Thầy của họ nên xuất thiền.

Một số quý vị hôm nay trước đây có thể đã từng gặp Serkong Tchenchap Rimpoché [một vị Thầy thường thuyết giảng cho người Âu châu]. Thân phụ của vị Thầy này mất ở Tshilhunpo và lưu lại thật lâu trong thể dạng ánh sáng trong suốt, các người thân chung quanh không biết phải xử trí ra sao và cũng không dám trực tiếp cầu khẩn người quá vãng xuất thiền, Sau cùng họ đành nhờ đến phu nhân của vị này giúp họ trong một buổi lễ được tổ chức thật long trọng.

Gần đây hơn, nhiều vị trong số các vị tham dự hôm nay đã từng biết Kyabdjé Ling Dordjéchang, vị này thiền định suốt hai tuần sau khi chết.

Trong thời gian thiền định trên đây, mặc dù người tu tập đã chết thế nhưng vẫn giữ tư thế ngồi thiền, đầu thẳng, gương mặt tỉnh táo. Trường hợp của Kyabdjé Ling Rimpoché còn đặc biệt hơn nữa, dáng dấp trên thân xác có vẻ trẻ hẳn ra. Thế nhưng sau đó người ta thấy nước chảy ra từ mũi và tức thời đầu của vị này gục xuống và các dấu hiệu thông thường xuất hiện. Chính đấy là lúc tâm thức và thân xác rời nhau và không còn sự liên hệ nào nữa.

Còn câu hỏi nào thêm?

Một thính giả: Trong các trường hợp trên đây, có thể xảy ra hiện tượng hoán chuyển tâm thức hay không? Nếu người hấp hối chấp nhận ra đi [rời bỏ thể dạng ánh sáng trong suốt] là một vị bồ-tát và nếu họ ước muốn được đầu thai thành một người phụ nữ họ có thể thực hiện được chăng và hoàn toàn chủ động được hành động ấy hay không? Có một sự tiếp nối liên tục nào không?

Rimpoché: Tôi không hiểu rõ câu hỏi.

Một thính giả: Nếu một người lưu lại như thế [thật lâu trong thể dạng ánh sáng trong suốt] họ có ý thức được [tình trạng đó] hay không? Có một sự hoán chuyển tâm linh hay một sự tiếp nối tri thức khi họ được yêu cầu rời khỏi thân xác, và nếu họ muốn đầu thai tức khắc và chọn lựa được nơi đầu thai họ có còn giữ nguyên được thể dạng tri thức của mình trước đây để hoán chuyển sang thân xác của một đứa bé trong tương lai hay không?

Rimpoché: Những gì vừa nêu lên có thể xảy ra, thế nhưng không nên dùng chữ hoán chuyển tâm linh vì không đúng nghĩa. Một người tu tập cao thâm khi rời khỏi thân xác có thể giữ được trí nhớ và tiếp tục công trình tu tập của mình sau này. Các sinh linh đạt được thể dạng A-la-hán (arya) đều nhớ được những gì họ từng thực hiện trước đây và cả mục đích mà họ mà họ đang theo đuổi.

Ngoại trừ trường hợp của các vị A-la-hán trên đây, đối với các người bình thường trí nhớ giảm xuống và không còn nhớ được các kỷ niệm cũ nữa. Tại sao trí nhớ của những người không phải là A-la-hán bị thoái hóa nhanh chóng? Bởi vì có hai thời điểm rất mong manh và tế nhị: một xảy ra trong giai đoạn quá trình của cái chết và một trong giai đoạn quá trình của sự sinh [thụ thai]. Trong quá trình của cái chết thời điểm đó xảy ra trong giai đoạn gần thu đạt được, đúng vào lúc xảy ra một sự bất tỉnh [hôn mê]. Khi tái sinh, trên quá trình đảo ngược thời điểm đó cũng xảy ra vào giai đoạn gần thu đạt được và cũng trùng hợp với một sự bất tỉnh [hôn mê].

Vì lý do nào bạn nghĩ đến sự “hoán chuyển tâm linh”? Ý nghĩa của các chữ này là gì? Bạn muốn nêu lên hiện tượng nào?

Một thính giả: Có thể tôi không diễn đạt được minh bạch, thế nhưng tôi nghĩ rằng nếu không còn giữ được một thân xác trước thế nhưng sự tiếp nối tâm thức vẫn còn, vậy phải có một sự hoán chuyển nào đó từ một cá thể này sang một cá thể khác.

Rimpoché: Nếu bạn hiểu theo ý nghĩa đó thì nào có vấn đề gì đâu, sự thể chính là như thế, có một sự tiếp nối liên tục giữa tâm thức của người chết và tâm thức của người tái sinh.

Còn ai thắc mắc nữa chăng?

Một thính giả: Người ta cho tôi biết phép tu tập “Powa” [còn viết là Phowa ph’owa, kinh sách gốc tiếng Hán gọi là “Chuyển di thần thức”] đòi hỏi không được để nước chảy ra từ một trong hai lỗ mũi, bởi vì như thế có thể khiến mình tái sinh vào một cõi thấp hơn. Phép tu tập “powa” nhất thiết chú trọng vào sự rỉ nước ở đỉnh đầu có nghĩa là lỗ Brahma [Phạm thiên], thế nhưng ngài lại bảo rằng nước chảy ra từ lỗ mũi [dấu hiệu của cái chết thật sự]. Điều đó có nghĩa là nếu không khép kín được chín lỗ hổng [của thân xác] có thể bị tái sinh trong một cõi thấp hơn. Mục đích của phép tu tập “powa” là tránh không để xảy ra các hiện tượng đó.

Rimpoché: Tôi chưa hề được nghe nói đến chuyện nước rỉ ra trên đỉnh đầu. Tuy nhiên tâm thức cực tinh tế có thể thoát ra từ vị trí đó tức từ cakra trên đỉnh đầu, thế nhưng đấy không phải là một sự rỉ nước, hay bất cứ giọt nào thoát ra từ vị trí đó. Các điều nêu lên trong câu hỏi cho thấy sự lẫn lộn giữa tri thức, dòng tiếp nối của tri thức (hay tâm thức cực tinh tế) và nước.

Một thính giả: Một vị Thầy Tây tạng có nói với tôi nếu thực thi đều đặn – tuy nhiên cũng không nên quá thường xuyên vì có thể khiến cuộc sống bị thu ngắn – phép tu tập “powa” sẽ mang lại nhiều hiệu quả, và khi thực hiện thật đúng phương pháp quán tưởng người ta sẽ có cảm giác tương tự như một sự rỉ nước trên đỉnh đầu, hiện tượng này là bằng chứng cho biết việc luyện tập “powa” được thực thi đúng cách.

Rimpoché: Nếu thực thi một cách đúng đắn, ta sẽ cảm nhận được hình như có một cảm giác lăn tăn trên đỉnh đầu nhưng không phải là một sự rỉ nước.

Có quý vị nào cần hỏi thêm?

Một thính giả: Có một nhà văn cho biết ở Tây tạng vì mặt đất rất cứng [tất nhiên toàn là đá và băng giá, đất trồng trọt rất hiếm] nên không có củi, người ta chặt xác chết của trẻ con và có khi của người lớn nữa cho thú vật ăn. Có đúng hay không?

Rimpoché: Vì xứ Tây tạng không có củi và đất cứng khiến không thể nào chôn cất hay hỏa táng người qua đời, người ta cắt xác chết cho kên kên ăn. Tại sao? Dầu sao đi nữa, ít nhất theo quan điểm Phật giáo giữa một xác chết và một khúc củi không có sự khác biệt lớn lao, đấy chỉ là một vật gì đó. Hơn nữa hành động như vừa đề cập có thể giúp ích cho các chúng sinh khác. Một số người trước khi chết còn dặn dò cẩn thận: ” Khi tôi chết cứ đem xác tôi vứt cho một loại thú nào đó (chẳng hạn như kên kên) giúp chúng tìm thấy thức ăn”. Đấy là một cách tu tập về lòng rộng lượng [bố thí].

Một thính giả: Làm thế nào biết được nước chảy ra từ lỗ mũi để biết chắc là tâm thức đã rời bỏ thân xác?

Rimpoché: Trên nguyên tắc, nước chảy ra từ lỗ mũi có màu đỏ hay màu hồng. Dầu sao đấy là một hiện tượng khá lạ lùng ít khi có dịp nhìn thấy, do đó rất dễ nhận ra.

Một thính giả: Đối với năm cấu hợp [ngũ uẩn], ngài nói sự sống là một sự tạo tác duy ý không mang bản chất tâm thần. Có phải ngài muốn nói đến tất cả mọi sự sống? Kể cả thực vật, chẳng hạn một hoa hồng hay một gốc cây?

Rimpoché: Thí dụ đưa ra chỉ có mục đích giúp hình dung thế nào là một cấu hợp tạo tác duy ý, thế nhưng bạn lại hiểu đấy là sự sống hoặc khoảng thời gian kéo dài trong cuộc sống của một cá thể, [câu hỏi đặt sai không có nghĩa gì cả].

Một thính giả: Nghe nói ở Ấn độ một số vị Đại sư lúc chết không thở ra khi sắp trút hơi thở cuối cùng, mà đúng hơn họ hít vào. Sự kiện đó có tượng trưng cho một hiện tượng thần bí nào không?

Rimpoché: Tôi cũng không biết đấy có phải là một hiện tượng thần bí hay không [đây cũng là một câu hỏi đi lạc vào chi tiết, cách trả lời của Dagpo Rimpoché rất khéo]

Một thính giả: Phải quan niệm như thế nào về việc hiến cơ thể khi cái chết xảy ra, lý do là việc này phải thực hiện nhanh chóng sau khi được xác nhận là chết theo các tiêu chuẩn bên ngoài? Tôi nghĩ rằng đấy là một sự vi phạm đến người hấp hối. Quan điểm của Phật giáo như thế nào trước các hành động ấy của người Tây phương?

Rimpoché: Nếu một người nào đó đã tự nguyện hiến dâng cơ thể của mình, việc thực thi ước nguyện của họ không phải là một sự vi phạm, đấy là một sự tự nguyện và cũng là một hành động can đảm. Trong trường hợp này họ không thể sử dụng các giai đoạn của cái chết trong mục đích tu tập. Trên thực tế một người tu tập Tan-tra tất phải hiểu rằng không nên để lại di chúc hiến cơ thể của mình, trừ trường hợp đấy là những vị tu tập cao thâm tự nguyện và quyết tâm dâng hiến cơ thể của mình. Hiến cơ thể có thể gây ra trở ngại.

THIỀN ĐỊNH

 Đến đây chúng ta hãy thiền định về những gì vừa được trình bày sáng nay. Quý vị chuẩn bị sửa lại thế ngồi cho thoải mái.

Trước hết chúng ta thiền định về các giai đoạn đã được mô tả. Chúng ta không cần chú ý đến các dấu hiệu bên ngoài vì nếu phải tưởng tượng ra tất cả các thứ đó khi mới bắt đầu tập sẽ rất rắc rối. Tạm thời chúng ta cố gắng ghi nhớ các dấu hiệu bên trong cũng tạm đủ.

Chúng ta hãy tưởng tượng cái chết sắp diễn cho chính mình. Trong lồng ngực bốc lên những luồng ánh sáng xanh [màu lam – xanh dương], hoặc xanh đậm, ánh sáng đó tỏa ra khắp hướng trong vũ trụ, tràn ngập không gian và bao trùm tất cả chúng sinh trong toàn thể vũ trụ. Sau đó tiếp tục tưởng tượng các luồng ánh sáng xanh đậm tỏa ra từ ngực mình biến toàn thể vũ trụ – trong đó bao gồm tất cả chúng sinh – trở thành một bản thể duy nhất là ánh sáng màu xanh.

* * * *

Tất cả đều hóa thành ánh sáng. Sau đó ta tưởng tượng tất cả ánh sáng gom tụ và thu nhỏ lại và ta hấp thụ trở lại vào người tất cả ánh sáng ấy. Chung quanh, tức bên ngoài ta chỉ còn lại sự trống không. Ta trở thành người hiện hữu duy nhất.

* * * *

Sau đó ta chú tâm vào nửa phần trên và nửa phần dưới của thân thể mình, tưởng tượng hai phần này cũng biến thành hai vùng ánh sáng xanh, các vùng ánh sáng này thu nhỏ lại và rút vào vị trí trung tâm của lồng ngực. Kết quả ta trở thành một bầu ánh sáng màu xanh, [hình tướng tức thân xác của mình biến mất chỉ còn lại một bầu ánh sáng màu xanh].

* * * *

Hãy tưởng tượng thành phần “đất” tan biến vào thành phần “nước” và hình dung ra dấu hiệu bên trong là một thứ ảo ảnh nào đó.

* * * *

Bầu ánh sáng thu nhỏ lại, hình ảnh đó tượng trưng cho sự tan biến của thành phần “nước” vào thành phần “lửa”. Dấu hiệu bên trong đi kèm với hiện tượng này là sự quán thấy một làn khói mỏng.

* * * *

Bầu ánh sáng tiếp tục thu nhỏ hơn nữa. Thành phần “lửa” tan biến trong thành phần “khí”. Ta tưởng tượng ra dấu hiệu bên trong là sự quán thấy các tia lửa bắn tung toé, hay một đàn đom đóm đang bay loạn trong tối.

* * * *

Thành phần “khí” tan biến vào tri thức. Dấu hiệu bên trong là ánh sáng lấp lóe của một ngọn đèn dầu.

* * * *

Tám mươi khái niệm về sự nhận biết thô thiển tan biến vào thể dạng bên ngoài. Trước hết ta tưởng tượng ra dấu hiệu bên trong là ngọn lửa của chiếc đèn dầu và sau đó khi thể dạng bên ngoài phát hiện, dấu hiệu bên trong sẽ là một thứ ánh sáng trắng thật rạng rỡ giống như ánh trăng vằng vặc.

* * * *

Trong giai đoạn này bầu ánh sáng xanh lại tiếp tục thu nhỏ hơn nữa ; kích thước chỉ còn bằng một hạt đậu.

* * * *

Thể dạng bên ngoài tan biến vào sự tăng trưởng của nó. Dấu hiệu bên trong là một thứ ánh sáng màu đỏ. Bầu ánh sáng màu xanh – tượng trưng cho tâm thức của ta – càng lúc càng thu nhỏ hơn, kích thước lúc này không to hơn một hột cải.

* * * *

Sự tăng trưởng tan biến trong thể dạng gần thu đạt được. Đốm sáng trở nên thật nhỏ, kích thước cỡ đầu sợi tóc. Vào giai đoạn này ta có cảm giác nhìn thấy một màu đen tuyền. Ta tưởng tượng ra một màn đen sẫm bao trùm chung quanh và nhớ lại giai đoạn trước đây tức sự tăng trưởng, giai đoạn đang xảy ra trong hiện tại tức là thể dạng gần thu đạt được và ta sắp cảm nhận được ánh sáng trong suốt của cái chết trong giai đoạn sắp xảy ra.

* * * *

Đốm sáng bằng đầu sợi tóc tượng trưng cho tâm thức tiếp tục thu nhỏ hơn nữa và sau cùng biến mất hoàn toàn, tất cả chỉ còn lại một không gian trống không thật trong trẻo và tinh khiết, tương tự như không gian của một buổi bình minh khi mặt trời và các tia sáng chưa ló dạng, bầu trời thật tinh khiết không một màu sắc nào cả. Ta hãy tưởng tượng đấy là ánh sáng trong suốt của cái chết đang phát hiện và tập trung suy tư để quán thấy tất cả mọi hiện tượng chỉ là những thứ do tâm thức diễn đạt, những khái niệm đơn thuần, không có một hiện tượng nào hiện hữu một cách tuyệt đối, tức tự chúng hiện hữu từ bản chất.

* * * *

Chúng ta vừa thực hiện một phép thiền định thật ngắn làm thí dụ. Sau này nếu quý vị muốn tiếp tục thiền định sâu xa hơn, trước hết phải nghiên cứu lại kỹ lưỡng những gì vừa được trình bày trong ngày hôm nay. Thí dụ trước hết ta nghĩ đến sự tan biến thứ nhất tức thành phần “đất” tan biến và bị hấp thụ bởi thành phần “nước”, nếu đủ khả năng nên hình dung ra các dấu hiệu bên ngoài đi kèm với giai đoạn này, nếu không tối thiểu cũng phải nhớ lại dấu hiệu bên trong. Sau khi tưởng tượng thành phần “đất” tan biến vào thành phần “nước” ta nghĩ đến thành phần “nước” tan biến vào thành phần “lửa” và mỗi lần tan biến sẽ có một dấu hiệu bên trong xảy ra.

Tiếp tục hình dung các giai đoạn tan biến như trên đây và luôn chú ý đến các dấu hiệu xảy ra kèm theo các giai đoạn, các dấu hiệu vừa mới xảy ra trước đây và các dấu hiệu sắp sửa xảy ra. Trong lúc thiền định phải nghĩ đến các thời điểm theo đó các dấu hiệu sẽ hiển hiện, phải đủ sức nhớ lại đầy đủ. Trong khi đang thiền định thật vô cùng quan trọng phải nhận biết được ngay các dấu hiệu khi chúng phát hiện. Nếu chuyên cần luyện tập sau này trong lúc hấp hối khi các dấu hiệu phát hiện ta sẽ đủ khả năng phân biệt từng dấu hiệu một và cả thứ tự xuất hiện của chúng.

Các giai đoạn tôi vừa mô tả thuộc vào quá trình xảy ra đối với cái chết trong các trường hợp bình thường, thế nhưng quá trình đó cũng xảy ra khi ngủ, tức là lúc chợp mắt để ngủ, hoặc vào một thời điểm xảy ra một biến cố nhỏ nào đó trong ngày. Thế nhưng trong cuộc sống thường nhật, trong khi chợp mắt để ngủ hay các giai đoạn của quá trình, quá trình vụt xảy ra và diễn biến thật nhanh khiến ta không thể theo dõi kịp.

Tu tập Tan-tra đến một cấp bậc nào đó có thể giúp ta ngay trong cuộc sống thường nhật có thể nhận biết được các giai đoạn ấy và sử dụng chúng vào việc tu tập. Thế nhưng muốn thực hiện được các khả năng này phải thật chuyên cần và hăng say tu tập trong một thời gian lâu dài.

Thế nhưng tu tập như thế để làm gì? Tại sao phải luyện tập để nhớ lại sự diễn tiến các giai đoạn cái chết trước khi cái chết xảy ra? Bởi vì khi quá trình đó thật sự xảy ra, ta phải đủ khả năng làm tan biến các thể dạng cảm nhận thô thiển và các “khí” thô thiển. Khi nào các cảm nhận và “khí” thô thiển đã tan biến hết sẽ còn lại tâm thức và “khí” cực kỳ tinh tế, ta sử dụng tâm thức và “khí” cực tinh tế đó để thiền định, kết quả mang lại sẽ vô cùng rộng lớn.

Nếu tập luyện theo các phép thiền định căn cứ vào các cảm nhận thô thiển hết trăm năm này sang trăm năm khác [nhiều kiếp] tất nhiên cũng sẽ đạt được một số kết quả nào đó, thế nhưng chỉ cần một ngày thiền định bằng cách sử dụng tâm thức và “khí” cực tinh tế cũng có thể mang lại kết quả lớn lao hơn và tích cực hơn. Tuy nhiên trong lúc còn sống, tâm thức và “khí” thô thiển luôn gây ra tác động thật mạnh khiến người tu tập khó phát hiện được tâm thức và “khí” trong thể dạng cực kỳ tinh tế để tu tập, [gián tiếp cho biết là quá trình diễn tiến của cái chết mang lại một thể dạng tâm thức và “khí” cực tinh tế thuận lợi cho việc tu tập Tan-tra].

Nếu ta có thể làm tan biến các “khí” và các cảm nhận thuộc cấp bậc thô thiển giúp tâm thức và “khí” cực tinh tế phát hiện để sử dụng chúng vào thiền định về tánh không ta sẽ nhanh chóng cắt đứt cội rễ buộc ta vào cõi ta-bà, có nghĩa là loại bỏ sự nắm bắt “cái tôi” nội tại, [tức là đạt được sự giải thoát ngay trong kiếp sống này].

Các phép tu tập Tan-tra thật hiệu quả và mau lẹ chính vì lý do vừa nêu lên trên đây. Nếu muốn tu tập theo Tan-tra trước hết phải tìm hiểu và học hỏi để hiểu biết Tan-tra là gì, phải biết tiếp cận Tan-tra thật đúng đắn. Không nên theo đuổi những việc nhảm nhí và gọi đấy là tu tập Tan-tra. Đối với chủ đề được nêu lên trên đây [chết – trung gian – tái sinh] nên tìm hiểu cẩn thận những gì đã được trình bày. Sau đó nếu muốn đi xa hơn trong việc tu tập thiền định Tan-tra [về cái chết] sẽ gặt hái được nhiều kết quả tốt.

Ngày hôm nay tôi giải thích về giai đoạn thứ nhất liên quan đến cái chết, thế nhưng đấy chỉ là những gì thật sơ lược. Còn vô số những điều chưa đề cập đến. Dầu sao đây cũng là lần đầu quý vị tiếp xúc với Tan-tra, vì thế tôi phải đơn giản hóa và trình bày thật tổng quát, tuy nhiên cũng phải làm thế nào để giữ được sự mạch lạc. Nếu đi ngay vào chi tiết sẽ có thể mang lại hoang mang và lẫn lộn cho quý vị. Khi nào quý vị hiểu và nhớ hết phần trình bày trên đây, chúng ta có thể tổ chức các buổi thuyết giảng khác sâu xa hơn về cái chết, kể cả các chủ đề khác về Tan-tra. Ngày mai tôi tiếp tục trình bày và giải thích về giai đoạn trung gian gọi là bardo và sau đó là sự tái sinh.

Sáng nay chúng ta cùng nhau nguyện cầu trường thọ cho Đức Đạt-lai Lạt-ma. Trước khi chấm dứt buổi thuyết giảng chiều nay chúng ta lại tiếp tục nghi thức nguyện cầu tương tự như buổi sáng, sau đó chúng ta sẽ niệm kinh tán thán hai mươi mốt vị Ta-ra. Trong ngày hôm nay chúng ta phát huy được lòng hăng say học hỏi Đạo Pháp và đồng thời còn thực hiện được cả việc tu tập. Nhất định đấy là những hành động mang lại thật nhiều công quả. Chúng ta hãy hồi hướng tất cả những công quả đó cho tất cả chúng sinh hầu giúp họ nhanh chóng thoát khỏi mọi khổ đau và đạt được thể dạng Giác ngộ hoàn hảo của một vị Phật.

Dagpo Rimpoché

Việt dịch: Hoang Phong

Nguồn: Chết – Thể Dạng Trung Gian – Tái Sinh 

Comments are closed.

MẠNH MẼ ĐỂ GIÁC NGỘ - BE POWERFUL TO ENLIGHTEN
Thông tin liên quan đến dòng Truyền Thừa Ripa Vinh Quang đã được Đức Pháp Vương - Đại Khai Mật Tạng Terchen Namkha Drimed Rabjam Rinpoche ban phước. Cầu mong kho tàng giáo lý Terma thâm diệu của dòng Truyền thừa Ripa Vinh Quang sẽ làm an dịu mọi nổi thống khổ của chúng sinh mẹ tại đất nước Việt nam thân yêu.

Om Ah Hung Maha Sengha Mani Radzaa Sarwa Siddhi Phala Hung