Đạo Sư Viên Mãn Ba Thân – Năm Trí |

Đạo Sư Viên Mãn Ba Thân – Năm Trí

Sùng Kính Đạo Sư Tánh không Thực hành

Giáo lý hôm nay liên quan đến một số câu hỏi mà vài đệ tử đã hỏi về ‘Trăm Gia Đình Của Chư Tôn An Bình Và Phẫn Nộ Linh Thiêng’. Những vị Bổn Tôn này được thiết lập hoàn toàn trong thân người và trong tất cả hữu tình chúng sinh, điều khiến một số đệ tử hỏi rằng, “Làm sao mà chư vị được thiết lập hoàn toàn như vậy?”.

Về ‘Trăm Gia Đình Của Chư Tôn An Bình Và Phẫn Nộ Linh Thiêng’ nói chung, trong trạng thái bất tịnh, chư vị hiển bày là năm cảm xúc phiền não và trong trạng thái thanh tịnh, chư vị hiển bày là năm trí. Nói cách khác, trong trạng thái chưa chín muồi, chư vị là năm cảm xúc phiền não và khi chín muồi, chư vị trở thành năm trí. Tuy nhiên, mỗi trí trong năm trí này kết hợp với các trí khác trong những sự sắp xếp có thể khác nhau, vì thế, tạo thành hai mươi lăm trí. Sự hiển bày tự nhiên này của chư Tôn được gọi là ‘đàn tràng của ba trụ xứ viên mãn’ và trong đó, các uẩn, giới vi tế và xứ, mỗi loại, đều được kết hợp theo kiểu năm phần. Về các uẩn: Thân của mỗi người bao gồm năm đại, thứ lại rỗng rang một cách tự nhiên ở cấp độ vi tế. Ví dụ, bản tính của lửa [hỏa] là tính Không, nhưng mặc dù chúng là Không, hỏa đại vi tế vẫn ở đó. Ở cấp độ của chân lý rốt ráo, không có sự mâu thuẫn giữa rỗng rang và không-rỗng rang.

Vì vậy, ở cấp độ bên ngoài, có năm đại và bên trong có năm cảm xúc phiền não. Và nếu cảm xúc phiền não trở nên chín muồi nhờ phát Bồ đề tâm thì một cách bí mật, có năm trí. Chúng ta vẫn luôn đọc Lời Cầu Nguyện Phổ Hiền Như Lai, điều mà thầy cũng đã ban luận giải. Trong đó có tuyên bố rất rõ ràng rằng chỉ nhờ thân thể được tạo ra, ‘Trăm Gia Đình Của Chư Tôn An Bình Và Phẫn Nộ Linh Thiêng’ tự nhiên hiện diện trong đó. Lời Cầu Nguyện Phổ Hiền Như Lai nói rằng:

‘Nhờ sức mạnh khởi lên của năm trí,

Sáu mươi Heruka phẫn nộ hiển bày’.

Hôm nay, thầy sẽ không nói nhiều về điều này, nhưng ý nghĩa gốc đều nằm trong Lời Cầu Nguyện Phổ Hiền Như Lai.

Một thân người quý báu sở hữu sự thông tuệ; điều này nghĩa là một người biết về điều được nói và hiểu được ý nghĩa. Hơn thế nữa, tất cả hữu tình chúng sinh, bao gồm cả con vật và v.v. đều sở hữu năm uẩn và năm đại. Chân ngôn Bí mật giải thích rằng các uẩn và đại là chư Phật phụ và mẫu, các xứ là chư Bồ Tát nam và nữ và chư Tôn phẫn nộ nam và nữ an trú trong não. ‘Trăm Gia Đình Của Chư Tôn An Bình Và Phẫn Nộ Linh Thiêng’ được giải thích trong Lời Cầu Nguyện Phổ Hiền Như Lai. Vì thế, bây giờ, con sở hữu một thân người mà con đã tạo ra. Nếu con bắt đầu bằng Bồ đề tâm cùng các giới quy y và bước vào ba cấp độ của con đường thì nếu con gặp được Bồ đề tâm, nó giống như hạt giống của một bông hoa gặp được nước và đất: Con sẽ trở nên như bông hoa bung nở và khi con bung nở, con trở thành Phật.

Chúng ta được dạy rằng tất cả hữu tình chúng sinh đều sở hữu Phật tính – đấy là lý do Đức Phật nói rằng, “Mọi hữu tình chúng sinh đều là Phật”. Ngài không nói rằng một số hữu tình chúng sinh là Phật và một số chỉ là hữu tình chúng sinh. Nhưng sự khác biệt giữa chư Phật và hữu tình chúng sinh là, lấy ví dụ, chư Phật giống như một đại dương bao la trong khi hữu tình chúng sinh giống như những khối băng. Vì lý do này, ngay từ đầu, Đức Phật đã dạy phương pháp điều phục tâm của hữu tình chúng sinh, thứ trở nên giống như nước đã đóng thành băng bởi thời tiết lạnh giá. Chấp ngã của chúng ta là thời tiết lạnh giá và bởi sự quen thuộc của chúng ta với nó trong nhiều năm, chúng ta tạo ra luân hồi; chúng ta trở nên giống như những khối băng trôi trên đại dương. Nhưng khi chúng ta gặp được Bồ đề tâm, nó giống như sự ấm áp của mặt trời làm băng tan chảy, khiến băng hòa thành một với nước đại dương. Chúng ta được dạy rằng khi điều này xảy ra, mọi hữu tình chúng sinh đạt trạng thái Phật quả. Do đó, Lời Cầu Nguyện Phổ Hiền Như Lai giải thích rằng, rốt ráo, khi con hiểu được bản tính của tâm con, con là Phật; nhưng nếu bởi bám chấp nhị nguyên vào ngã và tha, con không hiểu được bản tính của tâm, con là hữu tình chúng sinh.

Vì thế, bây giờ, để chín muồi thứ chưa chín muồi, chúng ta cần nương tựa một đạo sư tâm linh. Trong Sức Trang Hoàng Bảo Châu Của Sự Giải Thoát[1], Tổ Gampopa nói rằng:

“Nhân là Phật tính, sự hỗ trợ là thân người quý báu,

Duyên là thiện tri thức và phương pháp là những chỉ dẫn của chư vị”.

Như vậy, bởi con đã có được một thân người quý báu, con cần nương tựa vào duyên, tức là vị thiện tri thức. Nhưng thiện tri thức là gì?

Thiện tri thức là những vị thầy chỉ ra cho chúng ta các hệ thống thế tục và tâm linh. Ví dụ, có những vị thầy – các nhà khoa học và v.v. – người giúp chúng ta đạt được hạnh phúc theo những cách thức thế tục của đời người. Khi làm vậy, những nhà khoa học và v.v. đại diện cho một khía cạnh trí tuệ. Sau đó, có tất cả những vị thầy của hệ thống Giáo Pháp linh thiêng, người dạy chúng ta về đời này và các đời tương lai, nghiệp, hai chân lý và v.v. Những vị thầy như vậy là những vị đồng hành của Giáo Pháp linh thiêng và nhờ chư vị, chúng ta có thể hiểu về các đời tương lai của chúng ta: rằng chúng ta đi từ đời này qua đời khác. Vì lẽ đó, những vị thầy từ cả hai hệ thống đều là các thiện tri thức.

Một thiện tri thức trong hệ thống tâm linh cũng được gọi là ‘Lama’ [đạo sư] trong tiếng Tạng. Một số người hỏi về ý nghĩa của từ này và ý nghĩa của nó là gì khi nói rằng:

“Thực hành đạo sư thì lợi lạc hơn nhiều

So với việc dâng cúng dường lên tất cả chư Phật ba thời

Và thiền định về tất cả chư Bổn tôn”.

Nếu con biết về những phẩm tính của một đạo sư, con sẽ thấy rằng điều này mới đúng đắn làm sao. Chỉ nhờ nghe từ ‘Lama’, con sẽ có thể hiểu được ý nghĩa của nó.

Vậy thì làm sao mà tất cả hữu tình chúng sinh có thể đạt Phật quả? Điều đấy là nhờ nương tựa những cội nguồn quy y: Tam Bảo. Tam Bảo là gì? Thân của tất cả thành viên Tăng đoàn trên thế giới này là Tăng. Nhưng điều quý báu là khẩu của chư vị. Nó quý báu hơn thân, bởi chính nhờ khẩu của chư vị, Pháp luân của hai chân lý mới được chuyển. Và trong hai chân lý, chân lý tương đối là tính không sai lầm của nhân và quả. Tính không sai lầm của nhân và quả là gì? Nó nghĩa là khi các hành động của thân và khẩu dựa trên nguyên nhân là lòng từ, chúng trở thành thiện; do đó, từ là gốc của mọi lợi lạc và hạnh phúc. Và, là kết quả của các hành động dựa trên lòng từ này, người ta đạt được hạnh phúc ngay lúc này, trong chính đời này. Trái lại, khi các hành động dựa trên trạng thái bất thiện của chấp ngã, người ta bị kiểm soát bởi cảm xúc phiền não. Mọi tổn hại đều đến từ nhân này và kết quả là, người ta trải qua khổ đau.

Nếu con không biết rằng mọi thứ khởi lên từ nhân, con sẽ chỉ bám chấp vào hình tướng giả tạo của đời này và cuối cùng con sẽ nghĩ rằng: “Tôi có tự do để tạo ra hạnh phúc và tôi có tự do để tránh khổ đau”. Đó là cách mà người ta nghĩ khi họ chẳng biết về nghiệp hay nhân quả; trong trường hợp đó, họ sẽ không chỉ không thể chấp nhận khổ đau hiện tại mà còn chẳng thể hiểu rằng khổ đau này tịnh hóa nghiệp từ các đời quá khứ. Vì vậy, mặc dù nguyên nhân của mọi hạnh phúc hiện tại là từ bi, họ sẽ không thể hiểu điều này. Đó là lý do Đức Phật dạy rằng điều quan trọng là có thể hiểu được các nguyên nhân của khổ đau và hạnh phúc. Bởi Đức Phật đã dạy nguyên nhân hạnh phúc của mọi hữu tình chúng sinh, Ngài nói, “Nguyện tất cả hữu tình chúng sinh đều có hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh phúc”.

Ngay cả hạnh phúc nhỏ bé nhất trên thế gian này, trong luân hồi – chẳng hạn có được một thân người, có được những tài nguyên và thoát khỏi bệnh tật và khổ đau tinh thần – đều đến từ lòng từ mà họ đã trưởng dưỡng trong các đời quá khứ. Vì lẽ đó, trong đời này, nhờ lòng từ như vậy, họ tham gia vào các hoạt động bố thí, nhờ đó, họ có được của cải; họ tham gia vào trì giới, điều là nguyên nhân của việc có được một thân người quý báu; và họ tham gia vào nhẫn nhục, nhờ đó, họ có được những vị đồng hành tốt lành, hòa thuận, một cuộc đời dài lâu, một khuôn mặt đẹp đẽ và v.v. Bởi vậy, các phẩm tính hoàn hảo của một đời người may mắn đến từ bố thí, trì giới và nhẫn nhục và chẳng thể đạt được phẩm tính nào như vậy nếu không có chúng. Nhưng người ta nói rằng, bởi các hành động được thúc đẩy bởi lòng từ của chúng ta rất hiếm, có được một thân người quý báu là điều vô cùng khó khăn.

Ai là người chỉ ra cho chúng ta ý nghĩa của tất cả những điều này? Đó là chư Lama, những đạo sư tâm linh, người chỉ nó ra cho chúng ta. Do đó, thân của Lama là Tăng, khẩu của Ngài là Giáo Pháp linh thiêng và ý của Ngài là Phật. Vì vậy, về việc biết về đạo sư rốt ráo, trước tiên chúng ta cần nắm bắt khẩu của Ngài trong khi nương tựa thân của Ngài. Chính nhờ nắm bắt khẩu của Ngài mà chúng ta có thể hiểu được ý của đạo sư, bởi chính bằng khẩu, Ngài nói về bản tính của tâm. Vì vậy thực sự thì, chúng ta phải nắm bắt ý của Ngài, bởi đạo sư thực sự, rốt ráo là ý của đạo sư. Và để giới thiệu điều này, chúng ta cần biết về những phẩm tính của đạo sư.

Vậy thì những phẩm tính của đạo sư là gì? Lama sở hữu ba thân [kaya] và năm trí; vì thế, con cần hiểu ba thân và năm trí của đạo sư. Khi con hiểu ba thân và năm trí và con hiểu những phẩm tính đặc biệt của chúng, mọi chuyện sẽ trở nên rõ ràng là: Thân của đạo sư là Tăng. Ngài mang thân tướng của con người và bây giờ, Ngài là đạo sư tâm linh giữa [cõi] người. Do đó, với thân, Ngài từ bỏ tổn hại và nguyên nhân của tổn hại với chúng sinh khác và với khẩu, Ngài hoàn thành lợi lạc và nguyên nhân của lợi lạc cho chúng sinh khác. Và rốt ráo, với ý, Ngài giữ tri kiến thoát khỏi bám chấp nhị nguyên. Như thế, đạo sư sở hữu ba thân và năm trí.

Về ba thân, thân của đạo sư là Hóa thân; điều này nghĩa là, trong khi thân tướng bên ngoài của Ngài là [thân] người, bên trong Ngài là một vị Phật. Một vị Phật là gì? Một vị Phật sở hữu năm trí; trong tâm nội tại của Ngài là trí tuệ. Do vậy, ý của đạo sư là trí tuệ, tức là Ye-she [trong tiếng Tạng]. Nó là ye [nguyên sơ] bởi nó vốn đã ở đó từ thời nguyên sơ và she [biết] bởi nó biết mọi thứ. Và nó biết điều gì? Nó biết rằng tâm là bất nhị, thứ là chân lý rốt ráo, và bởi tâm là bất nhị, nó giống như hư không. Tổ Milarepa nói rằng:

“Tâm và hư không – khi mà chẳng có sự khác biệt giữa chúng,

Mọi thứ đều là Pháp thân”.

Vì thế, bởi ý của đạo sư là Pháp thân và không có nhị nguyên trong Pháp thân, ý của đạo sư là trí tuệ. Và bởi ý là bất nhị, ba thân xuất hiện từ nó. Do đó, thân là Tăng, khẩu là Giáo Pháp linh thiêng và ý là Phật. Và thuật ngữ ‘Buddha’ (sang-gye) nghĩa là bám chấp nhị nguyên đã được xua tan (sang), vì thế khi con hiểu rằng ý là bất nhị, ý trở nên không thể phân biệt với hư không và bởi ý giống như hư không, nó là Pháp thân. Do đó, ba thân nằm trọn trong đạo sư và Ngài cũng sở hữu năm trí.

Vậy thì mọi chuyện với chúng sinh bất tịnh như thế nào? Chúng sinh còn bất tịnh thì có ngã: Họ bám chấp vào nhị nguyên của ngã và tha. Họ tạo ra một cái ngã trong tâm, thứ vốn vô ngã, và từ đó, họ tạo ra những phân biệt giữa ‘tôi’ và ‘anh ấy’. Bởi sắc uẩn, họ nghĩ rằng họ tách rời với những hình tướng khác. Bởi nhị nguyên này, bất kể cảm xúc phiền não và ý nghĩ nào khởi lên, chúng trở thành năm phiền não. Vì vậy, bên ngoài, có năm đại; bên trong, có năm phiền não và bí mật, có năm trí.

Vậy thì làm sao mà năm phiền não chuyển hóa thành năm trí bí mật? Nó xảy ra khi con hiểu rằng, ở nền tảng, chẳng có nhị nguyên. Khi người ta chứng ngộ tri kiến bất nhị, các phiền não trở thành hư huyễn; sau đấy, bất kể cảm xúc phiền não hay ý nghĩ nào khởi lên đều sẽ tan rã. Ví dụ, bởi không có ai để tranh đấu, con sẽ chẳng tranh đấu với sự phản chiếu của bản thân trên gương. Theo cách đó, khoảnh khắc một cảm xúc phiền não khởi lên, nó tan rã như sóng trên nước: Đó là điều được gọi là ‘giải thoát’. Trong tâm, năm trí giống như ánh sáng cầu vồng hiện ra từ một viên pha lê.

Ở cấp độ của chân lý rốt ráo, để chứng ngộ thức là trí, chúng ta trước tiên nói rằng có thức. Thức này biết, hay nhận thức, các đối tượng bên ngoài. Nó biết rằng “các đối tượng bên ngoài là tha và tôi là ngã”. Vì thế, thức biết ngã và tha. Nhưng mặc dù nhận ra sự xuất hiện đơn thuần của các đối tượng bên ngoài, nó không biết bản tính bên trong của tâm: Do đó, nó được gọi là ‘thức’. Tuy nhiên, khi con nhìn vào tinh túy của chính thức này – hư không của tâm, nơi mà các ý nghĩ quá khứ đã ngừng lại và các ý nghĩ tương lai chưa khởi lên – nó được gọi là ‘trí nguyên sơ’. Và trí nguyên sơ không khác biệt với hư không. Do đó, người ta nói rằng:

“Trong cõi giới của trí nguyên sơ,

Tất cả chư Phật là một,”

Điều nghĩa là tất cả chư Phật chính xác như nhau. Các hình tướng bên ngoài có thể khác biệt, nhưng trong tâm bên trong, chư vị là một và giống nhau. Khi con nhận ra điều này, mọi cảm xúc phiền não khởi lên chuyển hóa thành năm trí.

Vậy thì năm trí là gì? Từ bản tính rỗng rang của tâm, thứ giống như hư không, mọi hình tướng của luân hồi và Niết Bàn khởi lên. Các hình tướng của luân hồi khởi lên bởi chấp ngã trong khi các hình tướng của Niết Bàn: những thân tướng thanh tịnh, Tịnh độ và v.v. đến bởi Bồ đề tâm. Nhưng bất cứ điều gì xuất hiện, nó chẳng có bất kỳ sự tồn tại rắn chắc hay cấu trúc quan niệm nào, thoát khỏi mọi nhị nguyên. Vì thế, giống như cách gương không bám chấp vào bất kỳ thứ gì xuất hiện trên nó, tâm chẳng có bám chấp nhị nguyên vào bất kỳ thứ gì xuất hiện: Đó là trí tuệ như gương [Đại Viên Cảnh Trí]. Do đó, khi các hình tướng của luân hồi và Niết Bàn khởi lên, nếu người ta giống như một chiếc gương và không bám chấp vào chúng, đó là trí tuệ như gương. Điều này nghĩa là khi con hiểu các hình tướng là huyễn, chẳng có tham luyến với các hình tướng tích cực hay thù hận với các hình tướng tiêu cực; như thế, có một sự bình thản với bất cứ điều gì xuất hiện, dù tốt hay xấu. Đó được gọi là trí tuệ của sự bình thản [Bình Đẳng Tính Trí].

Mặt khác, nếu con lạc vào bám chấp với các hình tướng và bám víu những hình tướng tích cực và không thích hình tướng tiêu cực, con sẽ tích lũy nghiệp. Và trí tuệ phân biệt [Diệu Quan Sát Trí] là thứ biết liệu con có rơi vào bám chấp hay không. Vì thế, nếu con thực sự rơi vào bám chấp, con sẽ tích lũy nghiệp; nhưng nếu không như vậy, con được giải thoát. Đây là sự khác biệt giữa ‘trói buộc’ và ‘giải thoát’. Những vị biết được bản tính của tâm và biết cách thiền định vì thế nhận ra khoảnh khắc mà “bây giờ tôi giải thoát một phiền não”. Ví dụ, khoảnh khắc sân hận khởi lên, nếu trí tuệ phân biệt biết rằng “hận thù đã khởi lên,” hận thù sẽ biến mất và người ta sẽ có thể mỉm cười. Theo cách này, năm phiền não được giải thoát và trí tuệ phân biệt biết chúng được giải thoát hay không. Như vậy, đây là sự thảo luận về Đại Viên Cảnh Trí, Bình Đẳng Tính Trí và Diệu Quan Sát Trí.

Tiếp theo, trí tuệ hoàn thành hoạt động [Thành Sở Tác Trí] biết được những phẩm tính của Bồ đề tâm. Từ việc đạt được sự sinh ra tạm thời trong ba cõi cao hơn cho đến sự thành tựu trạng thái rốt ráo của Phật quả, hạnh phúc và các nguyên nhân của hạnh phúc sẽ đều hiển bày tự nhiên. Chúng không cần phải được tạo ra bởi con. Vì thế, Bồ đề tâm không nghĩ về việc tạo ra trí tuệ: Thành Sở Tác Trí tạo ra nó một cách tự nhiên. Giống như vậy, chúng sinh phiền não, vị bám chấp vào ngã, không nghĩ rằng: “Tôi cần tạo ra khổ đau”. Một cách tự nhiên, bởi chấp ngã, bám chấp nhị nguyên và không nhận ra cảm xúc phiền não, người ta đặt dấu ấn nghiệp vào trong tâm. Những dấu ấn này sau đấy xuất hiện như là các hình tướng bên ngoài và kết quả là, họ sinh vào trong ba cõi thấp hơn. Thậm chí nếu người ta vẫn có thể sinh trong cõi người – nơi mà chúng ta trải qua sự kết hợp giữa hạnh phúc và khổ đau – họ sẽ gặp phải nhiều kiểu bệnh tật và khổ đau khác nhau.

Như thế, đây là cách xuất hiện sự đa dạng của ba cõi thấp hơn – sáu cõi của luân hồi và nó đều xảy ra bởi chúng ta chưa giải thoát các ý nghĩ. Về điều này, Đức Jigten Sumgon nói rằng:

“Nghiệp, nhân và quả,

Là sự hiển bày tự nhiên của ý nghĩ trong từng khoảnh khắc”.

Vì lẽ đó, sự hiển bày tự nhiên của trạng thái tiếp diễn của từ và bi là tạm thời sinh vào trong ba cõi cao hơn và rốt ráo, ba thân Phật và các Tịnh độ sẽ hiển bày. Và sự hiển bày tự nhiên của các cảm xúc phiền não, thứ khởi lên bởi bám chấp nhị nguyên vào ngã và tha, dẫn đến sự hiển bày tự nhiên của sáu cõi luân hồi. Bởi vậy, mọi hạnh phúc và khổ đau đều đến từ tâm, từ nhận thức nhị nguyên. Đây là ý nghĩa của Thành Sở Tác Trí.

Cuối cùng, trí tuệ Pháp giới [Pháp Giới Thể Tính Trí] là tâm như hư không. Khi con chứng ngộ bản tính của tâm, mọi phiền não sẽ chuyển hóa thành năm trí. Ví dụ, khi gỗ hay bất kỳ đối tượng bên ngoài [nào khác] bị đốt cháy bởi lửa, chúng đều chuyển hóa thành lửa. Giống như vậy, khi con thấy chân lý rốt ráo – tức là, khi con hiểu bất nhị và chứng ngộ tri kiến Đại Thủ Ấn – các phiền não sau đấy chín muồi thành trí tuệ hay vào ba thân và năm trí. Do đó, thân của đạo sư là Hóa thân và khẩu của Ngài là Báo thân. Và thân là Tăng, khẩu là Giáo Pháp linh thiêng còn ý là Phật. Vì thế, khi con thực hành điều này – khi con nghĩ về ý của đạo sư và tham gia vào thực hành con đường Chân ngôn Bí mật – thân của đạo sư là Hóa thân, khẩu của Ngài là Báo thân và về mặt ý của đạo sư, khi đạo sư viên tịch, Ngài về với Bổn tôn Yidam; Ngài chuyển hóa thành Bổn tôn. Khi ấy, Ngài chẳng tách rời với Bổn tôn; vì thế, khi đạo sư viên tịch, ý của Ngài chín muồi vào Bổn tôn, giống như hạt giống chín muồi thành một bông hoa. Do đó, bất kể vị Tôn nào là Bổn tôn, vị Yidam ấy là sự hiển bày tự nhiên của ý của đạo sư. Đó là Báo thân của đạo sư.

Về ý nghĩa của Yidam rốt ráo, điều đấy nghĩa là thoát khỏi bám chấp nhị nguyên. Đây là chân lý thực sự, rốt ráo, Pháp thân Kim Cương Trì, Phổ Hiền và v.v. Chúng ta được dạy rằng nền tảng là Pháp thân như hư không và rằng trong nền tảng Pháp thân, tất cả chư Phật là một. Vì thế, trong bối cảnh của Báo thân, thân của đạo sư chín muồi thành những Báo thân khác nhau, điều xuất hiện giống như cầu vồng và sau đấy, Hóa thân xuất hiện để điều phục những vị có thể điều phục bất tịnh. Hóa thân bao trùm tất cả ba hay sáu cõi của luân hồi, xuất hiện trong các hình tướng riêng biệt, vị hành động vì lợi lạc của hữu tình chúng sinh. Do vậy, đây là ba thân và năm trí.

Rốt ráo, trong bối cảnh của Chân ngôn Bí mật, năm trí là Tam Gốc: Lama, Yidam và Dakini [Đạo sư, Bổn tôn và Không Hành Nữ]. Và trong bối cảnh của kết quả, có ba thân. Tâm, thứ rỗng rang như hư không, là Pháp thân; bản tính sáng tỏ của nó là Báo thân và lòng bi phổ quát của nó là Hóa thân. Vì vậy, ba thân và năm trí xuất hiện từ quan điểm của bản tính tâm, hay chân lý rốt ráo – kết quả. Do đó, trong bối cảnh của chân lý rốt ráo, tinh túy rỗng rang là Pháp thân, khía cạnh của sự sáng tỏ tự nhiên là Báo thân và lòng bi phổ quát là Hóa thân.

Ba thân này cũng là cội nguồn của Tam Bảo bởi vì, trong tinh túy Pháp thân rỗng rang như hư không, tất cả chư Phật là một và giống nhau, bất khả phân với hư không. Bởi tâm Phật tính giống như đại dương bao la bao trùm mọi thứ, Pháp thân như hư không – tâm của tất cả chư Tôn – bao trùm mọi thứ, không gián đoạn, bao gồm sáu cõi bên ngoài của luân hồi. Vì thế, Pháp thân giống như hư không và Báo thân giống như cầu vồng, rõ ràng và không thể nắm bắt, không sinh và tử, không khởi lên hay suy tàn. Theo cách này, những Yidam khác nhau của Báo thân hiển bày hình tướng của chư vị. Về thân của Hóa thân, nó hiển bày trong sáu cõi luân hồi như là năm đại và v.v. Nói ngắn gọn, Tổ Jigten Sumgon nói rằng:

“Mọi chuyện được tiến hành trong cõi của những điều có thể biết

Đều được tiến hành bởi chư Phật”.

Như thế, nói ngắn gọn, tất cả nguyên nhân của lợi lạc và hạnh phúc là những nhiệm vụ được tiến hành bởi các Hóa thân trong những thân riêng biệt trong sáu cõi luân hồi. Đó là cách mà ba thân và năm trí hiện diện trong đạo sư, nơi mà, trong bối cảnh của nền tảng, có Tam Bảo; trong bối cảnh của con đường, có Tam Gốc; và trong bối cảnh của kết quả, có Tam Thân. Do đó, đạo sư sở hữu những phẩm tính của Chín Bảo và tất cả đạo sư đều sở hữu chúng. Nhưng mặc dù đấy là nguyên nhân, bởi nhận thức nhị nguyên của bản thân, chúng ta phải nương tựa vào niềm tin và lòng sùng mộ trong sự hành trì. Vì thế, mặc dù đạo sư của con có thể thanh tịnh, nếu tâm con bất tịnh và con bám chấp vào nhị nguyên, lợi lạc sẽ không khởi lên.

Có một câu chuyện từ cuộc đời của Đức Phật liên quan đến việc có niềm tin với đạo sư. Câu chuyện miêu tả cách mà xá lợi sinh ra từ chiếc răng chó. Làm sao chuyện đấy có thể xảy ra? Nó không phải là một phẩm tính của răng chó, mặc dù Phật tính cũng bao trùm con chó. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào ý định của chúng ta. Bởi các đối tượng chẳng có sự tồn tại cố hữu, khi con thấy một đối tượng bất tịnh là thanh tịnh, nó trở nên thanh tịnh. Và giống như vậy, khi con thấy điều gì đó thanh tịnh là bất tịnh, nó sẽ luôn luôn bất tịnh với con, bởi chính bản thân con bất tịnh. Vì thế, khi nói về những phẩm tính của đạo sư, Ngài sở hữu các phẩm tính của ba thân và năm trí và Chân ngôn Bí mật được gọi như vậy là bởi chúng sinh không hiểu ý nghĩa của nó. Vậy thì phương pháp để hiểu là gì?

Đầu tiên, nền tảng là Biệt Giải Thoát, khi mà con hiểu rằng cảm xúc phiền não là nguyên nhân của mọi khổ đau; vì thế, trên con đường của Biệt Giải Thoát, con từ bỏ cảm xúc phiền não. Sau đấy, ở giai đoạn của con đường Bồ Tát, chúng ta được giới thiệu với sự thật rằng nguyên nhân rốt ráo, hay gốc rễ, của cảm xúc phiền não là chấp ngã và rằng sự đối trị với chấp ngã là Bồ đề tâm (jang-chub-sem). Về nghĩa đen của jang-chub-sem: Jang nghĩa là tịnh hóa và chub nghĩa là đạt được sự làm chủ hoàn toàn. Vì vậy, trước tiên, chúng ta cần đạt được sự làm chủ hoàn toàn tâm vị tha và mức độ mà con tăng trưởng lòng vị tha là mức độ mà chấp ngã sẽ bị tiêu trừ.

Để hoàn thành điều này, hãy nhớ đến cha mẹ từ ái của chính con và hiểu rằng, từ vô thủy trong luân hồi, không có ai chưa từng là cha mẹ con. Đó là cách thức bắt đầu rèn luyện trong Tứ Vô Lượng Tâm. Sau đấy, từ sự trưởng dưỡng lòng đại từ này, thứ khởi lên vì cha mẹ của chính mình, đại bi khởi lên. Sau đấy, từ đại bi khởi lên đại hỷ, bởi khi con biết rằng hữu tình chúng sinh không tồn tại cố hữu, đại hỷ khởi lên như là kết quả. Hơn thế nữa, đại xả khởi lên khi chúng ta nhận ra rằng, từ quan điểm của chân lý thực sự, rốt ráo, ngã và tha không tồn tại cố hữu. Sự xả như vậy thoát khỏi mọi bám chấp nhị nguyên vào chủ thể và khách thể.

Như vậy, trước tiên hãy rèn luyện tâm trong Tứ Vô Lượng và sau đấy, bắt đầu bằng con đường của Biệt Giải Thoát, theo sau bởi con đường Bồ Tát và cuối cùng, con đường của Chân ngôn Bí mật. Rốt ráo, trong Chân ngôn Bí mật, chúng ta xem xét bản tính của tâm và đạt đến sự hiểu rằng tâm là bất nhị. Điều này được nhắc đến như là ‘kiến thức duy nhất giải thoát tất cả’. Khi chẳng có bám chấp nhị nguyên và con hiểu được bản tính của tâm, con trở nên biết-tất-cả: Do đó, nó được nhắc đến như là ‘kiến thức duy nhất giải thoát tất cả’. Trong truyền thống Kinh thừa, Tâm Kinh nhắc đến ‘phạm vi của trí tuệ nguyên sơ tự-thấu biết’. Tâm Kinh nói rằng:

“Kính lễ Trí Tuệ Hoàn Hảo,

Mẹ của những Đấng Chiến Thắng!”

Ở đây, ‘sự tự-thấu biết’ liên quan đến việc biết được bản tính của tâm, như nó là. Nó là sự chứng ngộ rằng, “Ồ, đây là tâm bất biến” – tâm thoát khỏi mọi ý nghĩ và thoát khỏi sinh và tử, giống như hư không. Nếu con hiểu tâm mình theo cách này, chẳng có gì trong cả luân hồi và Niết Bàn mà tâm không bao trùm.

Ví dụ, nhiều hoạt động trên thế gian này được tiến hành bằng năng lượng điện. Thực sự, tất cả các quốc gia trên thế giới đều hoàn toàn nương tựa nó. Nhưng có những cấp độ bên ngoài, bên trong và bí mật của năng lượng điện và năng lượng điện bí mật có kết nối lớn lao với tâm. Nhưng có một hay có hai năng lượng điện? Thực sự, chỉ có một năng lượng điện và bản tính của tâm con cũng giống như vậy. Đó là gốc rễ hay tri kiến của thiền định một vị, điều tức là tri kiến về sự bất khả phân của luân hồi và Niết Bàn. Khi con nhận ra điều này, bám chấp nhị nguyên được tiêu trừ (sang) và tâm sau đấy trở nên bao la (gye) như hư không. Đó là tri kiến Phật giáo rốt ráo và nó là sự quy y rốt ráo. Vì thế, trước tiên, sự quy y của Biệt Giải Thoát là từ bỏ tổn hại và nguyên nhân của tổn hại với chúng sinh khác. Sau đấy, trên con đường Bồ Tát, Bồ đề tâm khởi lên – và con cần hiểu Bồ đề tâm, bởi nếu con không hiểu Bồ đề tâm tương đối, con sẽ không thể đạt được nhiều hơn sự hiểu kiến thức đơn thuần về Đại Thủ Ấn rốt ráo hay tính Không. Như thế, con trước tiên cần phát khởi Bồ đề tâm tương đối, từ vô lượng trong dòng tâm thức.

Như đã miêu tả, con có thể trưởng dưỡng Bồ đề tâm tương đối, tâm yêu thương này, bằng cách quán chiếu về lòng từ của mẹ con, chư đạo sư của con, đất nước của con và v.v. Con cần thực sự quán chiếu điều này bằng cách nhớ về lòng từ và phát triển mong ước đền đáp. Mong ước đền đáp lòng từ nghĩa là một cảm giác chân thật khởi lên trong tâm con rằng, “Ồ, họ thật từ ái”. Khi cảm giác này khởi lên, con có được Bồ đề tâm. Một cách khác là nghĩ về những con đường mà con đã đi qua. Ai đã làm những con đường này? Đất nước đã làm chúng; một hay hai người chẳng thể làm chúng. Biết điều này sẽ khiến con nghĩ rằng đất nước thật quý báu. Hoặc con có thể nghĩ về cảnh sát của đất nước – những người bắt giữ tội phạm và đưa chúng vào tù. Tuy nhiên, mọi chuyện có thể xảy ra rằng, bởi nghiệp từ các đời quá khứ, con kết thúc trong tù ngục mà chẳng làm bất cứ điều gì sai; ví dụ, thầy đã bị tống giam, mặc dù thầy chẳng làm điều gì sai. Nhưng dẫu cho điều đấy có thể xảy ra, nếu các quốc gia không có luật pháp, người ta không thể nào cùng tồn tại. Vì vậy, bằng cách nghĩ rằng “tù ngục trong thế giới bên ngoài là tốt,” một nhận thức thanh tịnh khởi lên ngay cả với tù ngục. Và nếu con nghĩ theo cách này, con sẽ thấy ba cõi thấp hơn là một sự tịnh hóa các ác nghiệp. Các cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh giống như cơ sở y tế hay bệnh viện, nơi mà ba độc phiền não được phẫu thuật cắt bỏ và ác nghiệp được tịnh hóa. Và bởi Phật tính ở đó chẳng có sinh hay tử, con sẽ một lần nữa thoát khỏi các cõi thấp hơn. Mọi hình tướng và sự tồn tại là cõi thanh tịnh bất tận và mọi bệnh tật cùng khổ đau trong thế giới bên ngoài là một sự tịnh hóa các ác nghiệp của thân. Như thế, nó tốt đẹp. Khi điều này được nhận ra, các phiền não tự trị không còn có thể khởi lên nữa và nếu phiền não không khởi lên, các hình tướng của ba cõi thấp hơn không thể hiển bày.

Sau đấy, khi trở thành Phật, chúng ta làm lợi lạc chúng sinh trong ba cõi thấp hơn – do đó, chư Phật thực sự đến ba cõi thấp hơn. Nhưng chư vị trải qua các cõi thấp hơn như thế nào? Thực sự, với chư vị, đến các cõi thấp hơn giống như đến cõi Tịnh độ, nó giống như chơi trò chơi. Và bởi hữu tình chúng sinh bình phàm không xuất hiện trước chư vị, chư Phật nói rằng chư vị trải qua sự thích thú trong ba cõi thấp hơn, giống như chư thiên trong vườn lạc thú. Như thế, đây là cách thức ở cấp độ của Phật quả. Và gốc rễ của điều này là gì? Nó đến từ đạo sư. Nếu con phát khởi niềm tin với tất cả chư đạo sư, không phân biệt giữa tốt hay xấu, niềm tin này giống như một hạt giống.

Có hai cõi tham chiếu căn bản: Các cõi thấp hơn mà chúng ta trưởng dưỡng lòng bi mẫn và các cõi cao hơn mà chúng ta phát khởi niềm tin. Và niềm tin của con dành cho cõi cao hơn càng lớn, lòng dũng mãnh và sức mạnh của tâm con sẽ càng lớn hơn; trong trường hợp đó, con sẽ có thể câu triệu được hiệu lực. Như thế, cõi giới của niềm tin cần phải bao la và tri kiến thanh tịnh cũng cần phải bao la. Khi con có tri kiến thanh tịnh, tâm con sẽ trở nên thanh tịnh. Nhưng nếu con lại xem xét sự thanh tịnh hay bất tịnh của một đối tượng bằng tâm bất tịnh, con sẽ không thấy được thứ gì là thanh tịnh. Sau đấy, thậm chí nếu thứ gì đó thực sự thanh tịnh, con sẽ chỉ thấy các lỗi lầm. Ví dụ, có nhiều người thấy lỗi trong Đức Dalai Lama. Thật tệ làm sao! Ai đó như Đức Dalai Lama khai mở mắt giải thoát trong hữu tình chúng sinh của thế giới này; Ngài chỉ cho họ sự vận hành của nhân và quả. Thậm chí nếu chính Đức Phật có ở đây, Ngài cũng chẳng thể tiến hành những hoạt động bao la như vậy. Và không có sự khác biệt nhỏ nhất nào giữa Ngài và Đức Phật. Hơn thế nữa, không chỉ Đức Dalai Lama, mà tất cả chư đạo sư tâm linh đều như vậy. Tâm chư vị là Phật. Khi con biết điều này, con sẽ nghĩ rằng, “Ồ, tâm Ngài là Phật”.

Và lý do mà tâm chư vị là Phật là bởi chư vị không bám chấp vào ngã. Thay vào đó, chư vị có từ và bi. Do đó, thân chư vị là Tăng, khẩu chư vị là Giáo Pháp linh thiêng và ý chư vị là Phật: Tam Bảo viên mãn trong một đạo sư tâm linh. Và nếu con suy nghĩ theo cách như vậy, con sẽ chẳng phân biệt giữa bất kỳ vị nào trong số chư vị là tốt hay xấu. Vì lẽ đó, hãy khởi lên từ và bi dành cho hữu tình chúng sinh, những vị chưa có được một con đường tâm linh. Và hãy tùy hỷ các phẩm tính tốt lành của tất cả những vị đã có được một con đường tâm linh trên thế gian này. Nếu con gom góp chỉ những phẩm tính tốt đẹp, niềm tin sẽ khởi lên trong con – và đây là phẩm tính tốt đẹp của chính con. Nhưng hãy biết rằng nếu con lại thấy những lỗi lầm, con sẽ trở nên sai sót. Và sai sót là gì? Có ba ý nghĩ không nên khởi lên trong tâm con: tham lam, ý nghĩ gây hại và tà kiến. Ba điều này là bệnh tật tồi tệ nhất của tâm; vì thế, đừng phát triển chúng! Nếu con xem xét sự thanh tịnh hay bất tịnh của các đối tượng bên ngoài, con sẽ không thấy chúng bằng mắt trí tuệ; thay vào đó, con sẽ thấy điều bất tịnh là thanh tịnh và điều thanh tịnh là bất tịnh, giống như ai đó bị bệnh vàng da thấy vỏ ốc trắng là vàng. Vì thế, tri kiến thanh tịnh của bản thân con là quan trọng hơn cả.

Dâng cúng dường lên đạo sư theo cách này thì vĩ đại hơn nhiều việc dâng các món cúng dường lên tất cả chư Phật ba đời. Vì vậy, hãy hiểu rằng trong đạo sư, ba thân và năm trí đều viên mãn. Và chúng thực sự trọn vẹn bên trong tất cả chư Lama, tất cả chư đạo sư tâm linh. Nếu con nghĩ rằng một vị Lama hay đạo sư tâm linh ít nhất cũng có vài phẩm tính thì Ngài sẽ có thể giảng dạy cho con ý nghĩa của nghiệp, nhân và quả và Ngài sẽ có thể dạy con Ba Mươi Bảy Thực Hành Của Chư Bồ Tát. Do đó, nếu hôm nay, con hiểu về nghiệp thật tốt và con cũng trưởng dưỡng Bồ đề tâm lặp đi lặp lại nhiều lần, con sẽ, với sự chắc chắn một trăm phần trăm, đạt giác ngộ như là kết quả – ngay cả khi con nói rằng con không muốn, bởi chấp ngã sẽ được tịnh hóa. Bởi khi không còn chấp ngã thêm nữa và con hiểu được bản tính của tâm, con nhận ra rằng: “Tâm của tôi là Phật, mặc dù tôi chẳng bao giờ nhận ra”. Phật là tâm của chính con.

Tổ Jamgon Kongtrul[2] nói rằng:

“Các ý nghĩ lan man là Pháp thân,

Nhưng tôi chẳng bao giờ nhận ra điều này”.

Nhưng nếu con biết được trạng thái tự nhiên và con buông bỏ các ý nghĩ thì các ý nghĩ sẽ chẳng thể làm gì con. Bằng cách buông bỏ các ý nghĩ và việc con nhận ra chúng bằng trí tuệ, các ý nghĩ chẳng là gì mà chỉ như sóng trên nước: Chúng sẽ biến mất. Tuy nhiên, nếu con bám chấp và nắm chặt lấy chúng và rồi gây chiến với người khác bởi các nhận thức nhị nguyên, con sẽ tích lũy nghiệp. Sau đấy, kết quả sẽ chín muồi và con sẽ trải qua khổ đau trong đời này. [Trích dẫn tiếp tục:]

“Đó là trạng thái tự nhiên nội tại, không tạo tác,

Nhưng tôi chẳng thể tuân theo”.

Nhưng khi con có thể duy trì bản tính của tâm – giác tính sáng tỏ, thứ thoát khỏi mọi ý nghĩ – con sẽ nhận ra tất cả các ý nghĩ thiện và bất thiện và chúng sẽ tan rã và trở nên được giải thoát, giống như sóng trên nước. Do đó,

“Tâm của tôi là Phật, nhưng tôi chẳng bao giờ nhận ra.

Ý nghĩ lan man là Pháp thân, nhưng tôi chẳng bao giờ nhận ra.

Đó là trạng thái tự nhiên nội tại, không tạo tác, nhưng tôi chẳng thể tuân theo”.

‘Trạng thái không tạo tác’ là tâm không bị che lấp bởi các cảm xúc phiền não. Ví dụ, nếu con tức giận với ai đó hôm nay và cảm giác “anh ta thật tệ” vẫn duy trì vào ngày mai, tâm con chưa phải là không tạo tác hay không thay đổi. Sân hận đã thay đổi con. Nhưng nếu con không tạo tác, ngay cả khi con có một trận chiến thực sự vào hôm qua, bất kể ai đó đã tổn thương con nhiều đến đâu, không cảm giác nào về chuyện đó còn duy trì khi con gặp lại người này. Đây là tâm không tạo tác, không dao động. Chẳng sân hận hay tham luyến hoặc bất kỳ cảm xúc phiền não nào có thể thay đổi nó. Khi điều này xảy ra, tâm con sẽ không ngu dốt hay không biết, và con sẽ có thể nhận ra những giấc mơ vào ban đêm. Tâm con sẽ sáng tỏ.

Tâm không tạo tác nhờ trí tuệ, bởi trí tuệ của nó đang không bị che lấp. Điều này được gọi là ‘phạm vi của trí tuệ tự-thấu biết’ và với nó, con sẽ có thể nhận ra bằng sự sáng tỏ [như] pha lê này bất cứ điều gì khởi lên trong tâm. Và theo cách này, bất cứ điều gì khởi lên sẽ tan rã, giống như sóng trên nước. Đây là tâm không tạo tác, tâm như hư không, thứ thoát khỏi mọi ý nghĩ. Trích dẫn ở đây kết thúc bằng cách nói rằng:

“Đó là trạng thái tự nhiên nội tại, không tạo tác, nhưng tôi chẳng thể tuân theo”.

Đó là cách mọi thứ thực sự là trong trạng thái tự nhiên của chúng, nhưng tôi không có sự xác quyết về điều này”.

Thực sự, chẳng còn gì khác để thiền định về và ngoài việc nhận ra mọi ý nghĩ bằng tâm sáng tỏ, chẳng còn Phật nào vĩ đại hơn. Nó chỉ cần được làm quen. Như thế, “Đó là cách mà mọi thứ thực sự là trong trạng thái tự nhiên của chúng, nhưng tôi không có sự xác quyết về điều này”.

Có ba học giả được xem là những hóa hiện của Văn Thù Sư Lợi: Je Tsongkhapa, Gyalwa Longchenpa và Sakya Pandita. Về trạng thái tự nhiên này, trong Kho Tàng Chỉ Dẫn Cốt Tủy, Đấng Toàn Tri Longchen Rabjam, một học giả chân chính, nói rằng:

“Không có sự nghiên cứu nào cao hơn việc nhận ra trạng thái tự nhiên”.

Vì vậy, thậm chí nếu con có nghiên cứu trong hàng vạn năm, nếu con không nhận ra trạng thái tự nhiên, con vẫn chưa hoàn thiện được trí tuệ. Trí tuệ hoàn hảo là sự chứng ngộ về trạng thái tự nhiên và trạng thái tự nhiên là bản tính như hư không của tâm, thứ thoát khỏi ngã và tha và nó có thể phá hủy mọi ý nghĩ. Đây là trạng thái tự nhiên. Do đó, sau khi giải quyết vấn đề nghiên cứu, Ngài nói, “Không có sự nghiên cứu nào cao hơn việc nhận ra trạng thái tự nhiên”. Đây là điều mà chúng ta gọi là ‘giác ngộ’ và “Đó là cách thức mọi thứ thực sự là trong trạng thái tự nhiên của chúng nhưng tôi không có sự xác quyết”.

Không có sự khác biệt giữa trạng thái tự nhiên và Phật quả. Và nó là cùng một trạng thái tự nhiên, dù nó được gọi là Đại Thủ Ấn, Đại Viên Mãn hay Trung Đạo: Từ quan điểm của các kinh văn và lý luận lô-gic, nó được gọi là ‘Đại Trung Đạo’ trong khi từ quan điểm của truyền thừa gia trì-thực hành, nó được gọi là ‘Đại Thủ Ấn’ hay ‘Đại Viên Mãn’. Mặc dù tên gọi khác biệt, ý nghĩa giống nhau. Đại Trung Đạo nói rằng:

“Đừng bám chấp vào bất kỳ thứ gì.

Đừng bám chấp vào một ý nghĩ nào khởi lên trong tâm con.

Hãy an trú như hư không.

Đừng lạc vào hướng nào”.

Đại Thủ Ấn (chak-gya-chenpo) nói rằng tâm không di chuyển, thứ không bám chấp, giống như hư không. Về nghĩa đen của Đại Thủ Ấn, chak liên quan đến tính Không trong khi gya nghĩa là ‘bao la’ hay tự nhiên trùm khắp, như hư không. Và từ quan điểm Đại Viên Mãn, khi bản tính của tâm được hiểu, con nhận ra rằng không có hiện tượng nào trong luân hồi và Niết Bàn không nằm trong tâm. Chúng đều là ánh sáng cố hữu của tâm con.

Ba Mươi Bảy Thực Hành Của Chư Bồ Tát nói rằng:

“Cách thức mọi thứ xuất hiện chính là tâm con.

Chính tâm từ nguyên sơ đã vượt qua các thái cực tạo tác”.

Đó là cách mà Ba Mươi Bảy Thực Hành Của Chư Bồ Tát giải thích Đại Thủ Ấn trong chương về trí tuệ. Vì thế, là một hành giả Phật giáo, hãy thực hành theo cách này, bởi nó là con đường chân chính của Đức Phật. Con đường này phụ thuộc vào điều gì? Nó phụ thuộc vào đạo sư tâm linh. Và con cần hiểu rằng trong đạo sư tâm linh, ba thân và năm trí đều viên mãn.

Bây giờ, thầy đã giải đáp những câu hỏi và như vậy, thầy muốn gửi lời “Tashi Delek[3]”.

Đức Garchen Rinpoche

Việt dịch: Pema Jyana 

Nguồn: Đạo Sư Viên Mãn Ba Thân – Năm Trí 

[1] Theo Rigpawiki, Sức Trang Hoàng Bảo Châu Của Sự Giải Thoát (Dakpo Targyen trong Tạng ngữ) – một nghiên cứu nổi tiếng về nền tảng, con đường và kết quả của Phật Pháp, được viết bởi Tổ Gampopa, đệ tử xuất sắc nhất của Đức Milarepa. Bản văn này thâu nhiếp tinh túy của cả truyền thừa Kadam và Kagyu về các giáo lý Đại thừa.

[2] Về Đức Jamgon Kongtrul, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a35061/tieu-su-van-tat-duc-jamgon-kongtrul-yonten-gyatso-lodro-thaye-1813-1899-1900-.

[3] Theo Khenpo Sonam Tsewang, Tashi là cát tường; De là hạnh phúc trong cõi trời và người; Lek là tốt lành của sự giải thoát và giác ngộ thù thắng. Do đó, Tashi Delek nghĩa là “Cầu mong bạn được gia hộ với sự cát tường của hạnh phúc tạm thời và rốt ráo!”.

Comments are closed.

MẠNH MẼ ĐỂ GIÁC NGỘ - BE POWERFUL TO ENLIGHTEN
Thông tin liên quan đến dòng Truyền Thừa Ripa Vinh Quang đã được Đức Pháp Vương - Đại Khai Mật Tạng Terchen Namkha Drimed Rabjam Rinpoche ban phước. Cầu mong kho tàng giáo lý Terma thâm diệu của dòng Truyền thừa Ripa Vinh Quang sẽ làm an dịu mọi nổi thống khổ của chúng sinh mẹ tại đất nước Việt nam thân yêu.

Om Ah Hung Maha Sengha Mani Radzaa Sarwa Siddhi Phala Hung